GS.TS Phạm Hồng
Chương, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định, việc hạn
chế những tổn thương kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn trong giai
đoạn hậu COVID-19 đã trở thành yêu cầu trong chính sách toàn cầu. Và đổi
mới sáng tạo luôn được xem là động lực cốt lõi mang lại sự phát triển
kinh tế.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng,
những hạn chế như sự khan hiếm lao động tinh thông công nghệ số, khả
năng tiếp cận hạ tầng số không bình đẳng, các bất cập trong môi trường
pháp lý, bao gồm cả việc thiếu vắng những quy định pháp luật về bảo mật
dữ liệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ… đang cản trở việc chia sẻ thông tin
cũng như niềm tin vào áp dụng công nghệ. Để thúc đẩy năng suất lao động ở
châu Á cần một cú hích từ số hoá, trong đó cần tăng cường cơ sở hạ tầng
kỹ thuật số ở các quốc gia để cải thiện khả năng tiếp cận công nghệ và
thông tin…
Bà Antoinette Sayeh, Phó Tổng giám đốc
điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho hay: IMF nhận thấy một con đường
đầy hứa hẹn để thúc đẩy năng suất của châu Á – con đường chạy qua lãnh
địa mà châu lục này vốn vẫn giữ vị trí tiên phong, đó chính là số hoá.
Đại diện IMF cho biết, tầng lớp dân số
trẻ đang gia tăng ở Bangladesh, Indonesia và Việt Nam đã nhanh chóng
tiếp thu các công nghệ mới và trở thành tập khách hàng tiềm năng đáng kể
cho kinh tế số. Doanh thu thương mại điện tử ở Việt Nam, Indonesia, Ấn
Độ tăng 40%–50%, một tốc độ tăng vượt trội so với phần lớn các quốc gia
khác trên thế giới.
"Sự tăng trưởng nhanh chóng này được
thúc đẩy bởi xu hướng dịch chuyển khỏi phương thức thanh toán bằng tiền
mặt và sự bùng nổ các phương thức thanh toán số thay thế, đặc biệt là
thẻ trả trước và ví điện tử", bà Antoinette Sayeh cho hay.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, khả
năng tiếp cận công nghệ số tiên tiến có sự không đồng đều ngay trong mỗi
quốc gia, giữa các doanh nghiệp (DN) với nhau. Cụ thể, theo IMF, gần
1/2 số DN vừa và nhỏ và khoảng 1/3 số DN lớn ở các nền kinh tế đang phát
triển và thị trường mới nổi của châu Á cho biết khó khăn về nguồn vốn
là rào cản chính trong áp dụng công nghệ. Mức độ số hoá thấp và những
khó khăn trong tiếp cận, áp dụng công nghệ mới đã khiến các DN này phải
vật lộn để làm việc từ xa hay bán hàng trực tuyến trong thời gian đại
dịch.
Ảnh minh hoạ
Tốc độ lan toả công nghệ chậm chạp giữa
những DN tiên phong với DN đi sau cũng làm sâu thêm khoảng cách công
nghệ. Các hạn chế như sự khan hiếm lao động tinh thông công nghệ số, khả
năng tiếp cận hạ tầng số không bình đẳng, các bất cập trong môi trường
pháp lý (bao gồm cả việc thiếu vắng những quy định pháp luật về bảo mật
dữ liệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ) đang cản trở việc chia sẻ thông tin
cũng như niềm tin vào áp dụng công nghệ.
Khoảng cách số cũng ngăn cản người lao
động thụ hưởng đầy đủ lợi ích của việc tham gia nền kinh tế số và phát
huy tối đa tiềm năng của mình. IMF dẫn chứng, Indonesia là một trong
những quốc gia có tỉ lệ thâm nhập Internet thấp nhất khu vực Đông Nam Á,
với chỉ 1/4 tổng dân số sử dụng Internet. Còn ở Việt Nam và Bangladesh,
mặc dù chi phí truy cập Internet chỉ ở vừa phải, tốc độ kết nối
Internet lại thường chậm.
Từ thực tiễn này, các chuyên gia cho
rằng, việc tiếp tục nâng cao trình độ hiểu biết về công nghệ số, rút
ngắn khoảng cách số giữa các DN, các ngành và người lao động sẽ giúp thu
hẹp khoảng cách về năng suất. Dưới góc độ DN, ông Hoàng Nam Tiến, Chủ
tịch Công ty FPT Telecom cho rằng, trong bối cảnh công nghệ hiện diện ở
hầu hết lĩnh vực, cần phải có lực lượng lao động thành thạo công nghệ,
để làm được điều đó thì cần phải đào tạo.
Nêu một số khuyến nghị, bà Antoinette
Sayeh cho rằng Việt Nam cần ưu tiên các cải cách gồm: Tăng cường hạ tầng
số của quốc gia nhằm cải thiện tiếp cận thông tin và công nghệ; nâng
cao kỹ năng cho lực lượng lao động trẻ ở nhiều quốc gia nhằm đáp ứng nhu
cầu của người sử dụng lao động.
Bên cạnh đó, cần khắc phục những hạn chế
về nguồn vốn mà các DN vừa và nhỏ đang đối mặt để giúp họ áp dụng công
nghệ mới. Việc gia tăng tiếp cận tài chính sẽ giúp các nhà phát minh
giới thiệu sản phẩm mới của họ.
Tạo thuận lợi cho việc áp dụng các công
nghệ mới thông qua đơn giản hoá quy định quản lý nhà nước phù hợp với
ngành công nghệ số đang phát triển, cải thiện môi trường pháp lý (trong
đó có những quy định về bảo mật dữ liệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ), tạo
thuận lợi cho thương mại số.
Phong Lâm
Link: https://vietq.vn/nang-cao-hieu-biet-ve-cong-nghe-so-thu-hep-khoang-cach-ve-nang-suat-d207213.html