Các
chuyên gia cho rằng: Tầng lớp dân số trẻ đang gia tăng ở Bangladesh,
Indonesia và Việt Nam đã nhanh chóng tiếp thu các công nghệ mới và trở
thành tập khách hàng tiềm năng đáng kể cho kinh tế số
Ngày
10/1, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Trường Đại học Kinh tế Quốc dân công
bố Báo cáo "Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số ở châu Á nhằm
tăng năng suất".
GS.TS Phạm Hồng Chương, Hiệu
trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định, việc hạn chế những tổn
thương kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn trong giai đoạn hậu
COVID-19 đã trở thành yêu cầu trong chính sách toàn cầu. Và đổi mới sáng
tạo luôn được xem là động lực cốt lõi mang lại sự phát triển kinh tế.
Tuy
nhiên, các chuyên gia cho rằng, những hạn chế như sự khan hiếm lao động
tinh thông công nghệ số, khả năng tiếp cận hạ tầng số không bình đẳng,
các bất cập trong môi trường pháp lý, bao gồm cả việc thiếu vắng những
quy định pháp luật về bảo mật dữ liệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ… đang cản
trở việc chia sẻ thông tin cũng như niềm tin vào áp dụng công nghệ. Để
thúc đẩy năng suất lao động ở châu Á cần một cú hích từ số hoá, trong đó
cần tăng cường cơ sở hạ tầng kỹ thuật số ở các quốc gia để cải thiện
khả năng tiếp cận công nghệ và thông tin…
Bà
Antoinette Sayeh, Phó Tổng giám đốc điều hành IMF cho hay: IMF nhận
thấy một con đường đầy hứa hẹn để thúc đẩy năng suất của châu Á – con
đường chạy qua lãnh địa mà châu lục này vốn vẫn giữ vị trí tiên phong,
đó chính là số hoá.
Đại diện IMF cho biết,
tầng lớp dân số trẻ đang gia tăng ở Bangladesh, Indonesia và Việt Nam đã
nhanh chóng tiếp thu các công nghệ mới và trở thành tập khách hàng tiềm
năng đáng kể cho kinh tế số. Doanh thu thương mại điện tử ở Việt Nam,
Indonesia, Ấn Độ tăng 40%–50%, một tốc độ tăng vượt trội so với phần lớn
các quốc gia khác trên thế giới.
"Sự tăng
trưởng nhanh chóng này được thúc đẩy bởi xu hướng dịch chuyển khỏi
phương thức thanh toán bằng tiền mặt và sự bùng nổ các phương thức thanh
toán số thay thế, đặc biệt là thẻ trả trước và ví điện tử", bà
Antoinette Sayeh cho hay.
Tuy nhiên, các
chuyên gia cho rằng, khả năng tiếp cận công nghệ số tiên tiến có sự
không đồng đều ngay trong mỗi quốc gia, giữa các DN với nhau.
Cụ
thể, theo IMF, gần 1/2 số DN vừa và nhỏ và khoảng 1/3 số DN lớn ở các
nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi của châu Á cho biết
khó khăn về nguồn vốn là một rào cản chính trong áp dụng công nghệ.
Mức
độ số hoá thấp và những khó khăn trong tiếp cận, áp dụng công nghệ mới
đã khiến các DN này phải vật lộn để làm việc từ xa hay bán hàng trực
tuyến trong thời gian đại dịch.
Tốc độ lan
toả công nghệ chậm chạp giữa những DN tiên phong với những DN đi sau
cũng làm sâu thêm khoảng cách công nghệ. Các hạn chế như sự khan hiếm
lao động tinh thông công nghệ số, khả năng tiếp cận hạ tầng số không
bình đẳng, các bất cập trong môi trường pháp lý (bao gồm cả việc thiếu
vắng những quy định pháp luật về bảo mật dữ liệu và bảo hộ sở hữu trí
tuệ) đang cản trở việc chia sẻ thông tin cũng như niềm tin vào áp dụng
công nghệ.
Khoảng cách số cũng ngăn cản
người lao động thụ hưởng đầy đủ lợi ích của việc tham gia nền kinh tế số
và phát huy tối đa tiềm năng của mình. IMF dẫn chứng, Indonesia là một
trong những quốc gia có tỉ lệ thâm nhập Internet thấp nhất khu vực Đông
Nam Á, với chỉ 1/4 tổng dân số sử dụng Internet. Còn ở Việt Nam và
Bangladesh, mặc dù chi phí truy cập Internet chỉ ở vừa phải, tốc độ kết
nối Internet lại thường chậm.
Từ thực tiễn
này, các chuyên gia cho rằng, việc tiếp tục nâng cao trình độ hiểu biết
về công nghệ số, rút ngắn khoảng cách số giữa các DN, các ngành và những
người lao động sẽ giúp thu hẹp khoảng cách về năng suất.
Dưới
góc độ DN, ông Hoàng Nam Tiến, Chủ tịch Công ty FPT Telecom cho rằng,
trong bối cảnh công nghệ hiện diện ở hầu hết các lĩnh vực, cần phải có
lực lượng lao động thành thạo công nghệ, để làm được điều đó thì cần
phải đào tạo.
Nêu
một số khuyến nghị, bà Antoinette Sayeh cho rằng Việt Nam cần ưu tiên
các cải cách gồm: Tăng cường hạ tầng số của quốc gia nhằm cải thiện tiếp
cận thông tin và công nghệ; nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động trẻ
ở nhiều quốc gia nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng lao động.
Bên
cạnh đó, cần khắc phục những hạn chế về nguồn vốn mà các DN vừa và nhỏ
đang đối mặt để giúp họ áp dụng công nghệ mới. Việc gia tăng tiếp cận
tài chính sẽ giúp các nhà phát minh giới thiệu sản phẩm mới của họ.
Tạo
thuận lợi cho việc áp dụng các công nghệ mới thông qua đơn giản hoá các
quy định quản lý nhà nước phù hợp với ngành công nghệ số đang phát
triển, cải thiện môi trường pháp lý (trong đó có những quy định về bảo
mật dữ liệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ) và tạo thuận lợi cho thương mại
số.
Ngày
31/3/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg về
việc phê duyệt chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số
đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Trong chiến lược này,
Chính phủ nêu mục tiêu cơ bản đến năm 2025: Tỉ trọng kinh tế số đạt 20%
GDP; tỉ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%;
tỉ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt trên 10%; tỉ lệ DN
sử dụng hợp đồng điện tử đạt trên 80%; Tỉ lệ DN nhỏ và vừa sử dụng nền
tảng số đạt trên 50%; Tỉ lệ nhân lực lao động kinh tế số trong lực lượng
lao động đạt trên 2%. Mục tiêu cơ bản đến năm 2030: Tỉ trọng kinh tế số
đạt 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối
thiểu 20%; tỉ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt trên
20%; tỉ lệ DN sử dụng nền tảng hợp đồng điện tử đạt 100%; tỉ lệ DN nhỏ
và vừa sử dụng nền tảng số đạt trên 70%; tỉ lệ nhân lực lao động kinh tế
số trong lực lượng lao động đạt trên 3%.
Anh Minh
Link: https://baochinhphu.vn/can-mot-cu-hich-tu-so-hoa-de-tang-nang-suat-102230110173422083.htm