Việc bứt tốc cho nền kinh tế số tại Việt Nam sẽ cần đến những giải pháp
hết sức đặc thù và cần được thực hiện đồng bộ trên khắp các mặt trận.
Kinh
tế số là 1 trong 3 trụ cột chính của Chuyển đổi số Quốc gia, cùng Chính
phủ số và Xã hội số. Tháng 9/2019, nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019
của Bộ Chính trị về "Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư" đã xác định phát triển kinh tế số
là trụ cột, là nhiệm vụ trọng tâm chiến lược trong tiến trình phát
triển chuyển đổi số quốc gia những năm tiếp theo và đề ra mục tiêu vào
năm 2025 kinh tế số Việt Nam chiếm 20% GDP, đến năm 2030 chiếm 30% GDP.
Đây là những mục tiêu lớn, để Việt Nam khai thác được tiềm năng phát
triển kinh tế số và đạt được các mục tiêu đã đề ra, cần có những giải
pháp quan trọng.
Chuyên gia Nguyễn Thy Nga – Chủ nhiệm Đề án từ
Chính sách ra Cuộc sống đã có những trao đổi cùng GS. Trần Thọ Đạt, Chủ
tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Thành viên
Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề trên.
Chuyên gia Nguyễn Thy Nga: Để
Việt Nam khai thác tiềm năng phát triển kinh tế số, đạt được các mục
tiêu đã đề ra, để kinh tế số sớm bứt tốc, theo ông, đâu là những giải
pháp quan trọng nhất để chúng ta thực hiện được mục tiêu này?
GS Trần Thọ Đạt:
Trước hết, sớm ban hành chiến lược quốc gia về kinh tế số mang tính
toàn diện và thiết lập các cơ quan chuyên trách về kinh tế số, với một
cơ quan chịu trách nhiệm chính trong quá trình thực hiện. Tiếp đến, hoàn
thiện khung thể chế, cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh
số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo phù hợp với các khuôn khổ pháp lý
khu vực và toàn cầu để phát triển kinh tế số, đặc biệt là các mô hình
và phương thức kinh doanh mới để kinh tế số sớm tăng quy mô và gia tăng
tỷ trọng đóng góp trong tăng trưởng nói chung. Các chính sách về kinh tế
số cần bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất trong triển khai và
thực hiện các kế hoạch, chương trình về kinh tế số.
Thứ hai,
sớm đưa ra một định nghĩa "kinh tế số" được thống nhất rộng rãi, đạt
được đồng thuận cao; từ đó đo lường kinh tế số một cách nhất quán để so
sánh và xây dựng các giá trị kinh tế số "cơ sở" của một năm, làm căn cứ
cho việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế số về quy mô và tốc độ phát
triển của các ngành và địa phương.
Thứ ba,
gia tăng đầu tư, đặc biệt là đầu tư công nhằm nâng cấp đồng bộ kết cấu
hạ tầng và dịch vụ số thiết yếu và rộng khắp, bao quát mọi ngõ ngách của
nền kinh tế và đến từng công dân, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ
tầng dữ liệu quốc gia, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn,
an ninh mạng, nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết
yếu một cách đồng bộ, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp được
sử dụng những tiện ích do kinh tế số mang lại.
Thứ tư,
nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế số và chuyển đổi số quốc gia,
qua đó có sự chuẩn bị tốt nhất cho khả năng thích ứng các xu hướng phát
triển này đối với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và
siêu nhỏ. Các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt cơ hội, tối ưu hóa mô
hình kinh doanh, phát triển kỹ năng mới cho từng cá nhân và tổ chức, sớm
triển khai tích hợp công nghệ số hóa, thúc đẩy phát triển những giải
pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa, tham gia hiệu quả hơn vào
chuỗi cung ứng toàn cầu, năng cao năng lực quản trị phù hợp với những mô
hình sản xuất, kinh doanh và hợp tác mới.
Thứ năm, khi tham gia vào thị
trường lao động trong nền kinh tế số, người lao động phải đổi mới để
thích nghi với các kỹ năng, kiến thức và các phương thức kinh doanh
truyền thống trước đây nay đang dần chuyển sang môi trường số. Nhìn dài
hạn, cần phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường năng lực tiếp
cận và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi,
phát triển, từ đó thúc đẩy tư duy sáng tạo, đổi mới hệ thống giáo dục
đào tạo với việc thay đổi từ quản lý giáo dục, phương pháp dạy, giáo
trình dạy và các môn hoc mới gắn với số hóa. Triển khai các chương trình
đào tạo, đào tạo lại kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho người
đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc điều hành và đội ngũ quản trị
các cấp của doanh nghiệp.
Thứ sáu,
hiểu biết một cách đúng đắn và toàn diện cả về lợi ích cũng như về
thách thức đối với kinh tế số là một trong những điều kiện tiên quyết để
phát triển kinh tế số theo con đường tối ưu nhất có thể được. Một thách
thức của kinh tế số là góp phần làm sâu sắc thêm phân hóa giàu-nghèo
trong xã hội, vì các cơ hội "làm giàu" từ kinh tế số sẽ tùy thuộc vào
năng lực thích ứng vốn rất khác nhau của các tác nhân trong nền kinh tế.
Ngoài ra, vấn đề thuế kinh tế số như là một hệ quả từ thách thức đo
lường kinh tế số, tính đa dạng và sự cải tiến không ngừng các hình thức
kinh doanh số sẽ làm gia tăng độ phức tạp của vấn đề thuế đối với kinh
tế số trong việc thực hiện bài toán công bằng và hiệu quả.
Chuyên gia Nguyễn Thy Nga:
Kinh tế số là đòn bẩy quan trọng để phục hồi kinh tế trước mắt và tạo
đà cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững trong dài hạn. Đây không chỉ
là vấn đề quản trị quốc gia, mà còn là quản trị vùng, quản trị địa
phương, cần đến vai trò chủ động của các địa phương, năng lực hợp tác,
liên kết giữa các địa phương, vùng, tiểu vùng để khai thác, sử dụng
nguồn lực hiệu quả, phát huy tốt các hệ động lực cho phát triển. Hiện
tại một số tỉnh, thành phố đã ban hành các Nghị quyết, xây dựng Đề án
chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, chính quyền số, xã hội số. Ông có
nhận xét gì về các Nghị quyết, Đề án này?
GS Trần Thọ Đạt:Cho
đến nay, hầu hết các tỉnh, thành đều có Nghị quyết, Đề án chuyển đổi
số, phát triển kinh tế số, chính quyền số, xã hội số, một số tỉnh đã có
khá sớm như Thái Nguyên, Quảng Ninh, Đà Nẵng,…
Những Nghị
quyết/Đề án đều thể hiện quyết tâm cao và trách nhiệm lớn của các địa
phương trong việc cụ thể hóa Văn kiện Đại hội XIII và Chiến lược chuyển
đổi số quốc gia của Chính phủ.
Tuy nhiên, có một số điểm cần lưu ý trong việc triển khai thực hiện, rà soát, bổ sung, hoàn thiện các Chiến lược/Đề án này:
Thứ nhất,
hầu hết các mục tiêu định lượng trong các đề án chuyển đối số, phát
triển kinh tế số của các địa phương đều "na ná" như nhau và tương tự như
các mục tiêu đề ra của cả nước trong Chương trình chuyển đổi số quốc
gia theo quyết định 749, "bản sắc địa phương" của các Nghị quyết/Đề án
còn khá mờ. Chúng ta đã có những bất cập trong việc áp dụng cơ cấu kinh
tế của cả nước cho tất cả các tỉnh, thành trong giai đoạn vừa qua. Khi
phân tích về những thách thức phát triển kinh tế số của Việt nam, có một
yếu tố khách quan dễ nhận thấy chính là địa lý và phân bố dân cư dàn
trải, dẫn đến chi phí cao trong lắp đặt thêm các kết cấu hạ tầng và nâng
cấp nền tảng sẵn có, chi phí logistic, đặc biệt tại các khu vực miền
núi và vùng thường xuyên xảy ra thiên tai. Ngoài ra, trình độ và kỹ năng
của lực lượng lao động thích ứng với cách mạng công nghiệp 4.0 có chênh
lệch lớn giữa các địa phương, vùng miền. Do đó, tiềm năng và tương lai
phát triển kinh tế số của các địa phương là rất khác nhau, không thể
"dàn hàng ngang cùng tiến" trong phát triển kinh tế số.
Thứ hai,
tính "cụ thể hóa" trong việc triển khai các mục tiêu về tỷ trọng kinh
tế số trong GDP, các ngành, chỉ tiêu tăng năng suất lao động chưa cao.
Hầu hết các Đề án đều chưa chỉ rõ về định lượng cơ cấu phát triển kinh
tế số (kinh tế số lõi, kinh tế internet và kinh tế ngành), tác động của
kinh tế số trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung của tỉnh, các kịch
bản phát triển kinh tế số khác nhau,…
Thứ ba,
Chính phủ cần sớm có cơ chế thúc đẩy phát triển kinh tế số tại các vùng
kinh tế trọng điểm để liên kết các đề án chuyển đổi số và phát triển
kinh tế số của các địa phương thuộc vùng trọng điểm, phát huy lợi thế
vùng không chỉ là nơi có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà còn có các
điều kiện và tiềm năng thuận lợi để phát triển kinh tế số.
Vừa
qua, Chính phủ đã có nhiều hoạt động quan trọng để thúc đẩy kinh tế số.
Ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số
749/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025,
định hướng đến năm 2030" xác định tầm nhìn đến năm 2030 Việt Nam trở
thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các
công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý,
điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an
toàn, nhân văn, rộng khắp.
Ngày 24/09/2021, Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử được kiện toàn,
đổi tên thành Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số. Ủy ban có 16 thành viên,
Chủ tịch Ủy ban là Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính. Ngày 15/3, Thủ
tướng, Chủ tịch Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số đã ký ban hành kế hoạch
hoạt động của Ủy ban năm 2022.
Theo Minh Đức/VTV
Link: https://doanhnghiepvn.vn/chuyen-doi-so/-tang-truong-kinh-te-so-can-cao-gap-3-lan-tang-truong-gdp-hang-nam/20220321075744865