Ngày 16/12 vừa qua, Bộ Tài
chính Mỹ công bố Báo cáo chính sách kinh tế vĩ mô và tỷ giá hối đoái của
các đối tác thương mại chính của Mỹ trong đó cáo buộc Việt Nam thao
túng tiền tệ theo Đạo luật tạo thuận lợi và thực thi thương mại 2015
(Đạo luật 2015). Cáo buộc đó sẽ tạo căn cứ để Tổng thống Mỹ đưa ra các
biện pháp gây bất lợi cho Việt Nam nếu Việt Nam không có phản ứng hiệu
quả.
Ba tiêu chí xác định “ngưỡng” cáo buộc
Để bị coi là thao túng tiền tệ, phải đáp ứng ba tiêu chí: Tiêu chí
thứ nhất là quy mô thặng dư thương mại song phương có ý nghĩa với Mỹ ít
nhất 20 tỷ USD trong thời kỳ 12 tháng. Tiêu chí thứ hai là mức thặng dư
tài khoản vãng lai vật chất với Mỹ lớn hơn 2% GDP trong thời kỳ 12
tháng. Tiêu chí thứ ba là sự can thiệp 1 chiều liên tục khi diễn ra việc
mua ròng ngoại tệ lặp đi lặp lại ít nhất 6 trong 12 tháng với tổng
ngoại tệ mua ròng ít nhất 2% GDP trong 12 tháng.
Cáo buộc Việt Nam thao túng tiền tệ sẽ tạo căn cứ để Tổng
thống Mỹ đưa ra các biện pháp gây bất lợi cho Việt Nam nếu Việt Nam
không có phản ứng hiệu quả. (Ảnh minh họa: KT)
Dựa
trên 3 tiêu chí, Bộ Tài chính Mỹ xác định liệu có tình trạng hành vi
tiền tệ không công bằng hay sự mất cân bằng cân bằng đối ngoại quá mức
làm tăng thêm gánh nặng tăng trưởng, việc làm công nhân và doanh nghiệp
đang trên đà phát triển Mỹ hay không?
Báo cáo đã đưa ra số liệu làm bằng chứng Việt Nam “đáp ứng” đủ 3 tiêu
chí. Cụ thể là tiêu chí 1, đến tháng 6/2020 đã thặng dư 58 tỷ USD, tiêu
chí 2 là thặng dự tài khoản vãng lai 4,6% GDP và tiêu chí thứ 3 là
lượng ngoại tệ mua vào 5,1% GDP (16,8 tỷ USD) trong 4 quý tương ứng.
Dựa theo tiêu chí được phân tích nâng cao này, Bộ Tài chính Mỹ sẽ
tiến hành can dự vào quan hệ song phương với Việt Nam theo quy định của
Đạo luật để nhanh chóng đưa ra kế hoạch hành động cụ thể về chính sách
nhằm xử lý nguyên nhân cơ bản tình trạng Việt Nam định giá thấp đồng
tiền.
Theo Đạo luật, việc biện pháp có được áp dụng hay không sẽ còn dựa
trên việc tính toán và cân nhắc “thiệt hơn” sự tác động của chúng đối
với lợi ích của Mỹ. Tuy nhiên, có thể thấy, nếu các biện pháp đó được áp
dụng, chắc chắc sẽ tác động bất lợi đến doanh nghiệp và chính sách
thương mại, tiền tệ của Việt Nam.
Mỹ có thể buộc Việt Nam nâng giá đồng Việt Nam gây giá hàng xuất khẩu
tăng, làm giảm cầu hàng Việt Nam ở nước ngoài. Đồng thời, thu hút đầu
tư nước ngoài giảm do giá cả trong nước tăng, lợi thế lao động rẻ giảm
sút, lòng tin của nhà đầu tư vào chính sách Việt Nam giảm. Các khoản nợ
tính bằng đồng Việt Nam tăng lên, gây hạch toán khó khăn cho doanh
nghiệp trong khi hàng nhập khẩu giá rẻ tràn ngập càng đẩy doanh nghiệp
vào tình cảnh khó khăn.
Các công cụ mang tính đáp trả thương mại như: đánh thuế, áp dụng các
biện pháp phi thuế hay hàng rào kỹ thuật… đều có thể xảy ra và sự bất
lợi, mất lợi ích khó tránh khỏi.
Số liệu tính tiêu chí còn thiếu
Tiêu chí thặng dư thương mại giữa Việt Nam và Mỹ chỉ mới tính đến
hàng hóa chưa tính đến dịch vụ trong khi Hoa Kỳ xuất khẩu đáng kể dịch
vụ sang Việt Nam. Điều này được Hoa Kỳ công nhận ngay trong báo cáo.
Thực tế, nhiều đối tác đã được đưa ra khỏi danh sách thao túng tiền
tệ nhờ tính thêm cả thương mại dịch vụ theo hướng giảm thiểu đáng kể
thâm hụt của Hoa Kỳ. Tỷ trọng thương mại dịch vụ do Hoa Kỳ cung cấp tăng
lên sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng thặng dư từ phía Việt Nam. Hơn
nữa, số liệu về GDP của Việt Nam cũng có sự thay đổi. Sau khi tính toán
lại, GDP được Tổng cục Thống kê công bố tăng thêm trên 25% năm 2019 so
với GDP hiện được áp dụng. Nếu áp dụng cách tính toán sử dụng GDP mới
điều chỉnh, các tiêu chí có thể thay đổi đáng kể.
Những điều chỉnh kết quả tính toán của phía Việt Nam cho dù chỉ là
điều chỉnh nhỏ nếu được phía Hoa Kỳ công nhận cũng làm yếu đi số liệu từ
báo cáo Bộ Tài chính Hoa Kỳ và tăng thêm sự tự tin của Việt Nam.
Sự lựa chọn thích hợp
Rõ ràng, có nhiều điểm cần có sự tham vấn trực tiếp của cả hai bên để
hiểu rõ hơn. Thành phần tham vấn nên có các nhà đầu tư Hoa Kỳ thành
công ở Việt Nam cũng như các đối tượng hữu quan có lợi ích kinh tế đáng
kể và lâu dài ở Việt Nam để tăng sự thiện cảm hay làm “mềm” đi sự căng
thẳng không cần thiết trong quan hệ song phương.
Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển và đạt nhiều kết quả trong
điều hành kinh tế, thực hiện thành công vừa chống dịch vừa phát triển
kinh tế. Điều này là chỗ dựa để làm tăng tính bền vững của quan hệ đối
tác chiến lược hai nước. Chính sách tiền tệ Việt Nam nhằm ổn định kinh
tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát, không có mục tiêu giảm giá đồng tiền để
tạo lợi thế cạnh tranh. Thực tế, Việt Nam chưa bao giờ thực hiện hành vi
này. Vì thế, nếu cáo buộc Việt Nam có mục đích giảm giá đồng tiền để
tạo lợi thế cạnh tranh hay thực hiện hành vi thương mại không công bằng
là hoàn toàn không phù hợp.
Trong giai đoạn đại dịch Covid-19, do tác động của sự đứt gãy chuỗi
cung ứng, tình trạng suy giảm việc làm ở Mỹ, với gói trợ cấp của Mỹ, nhu
cầu về hàng hóa thiết yếu tăng lên. Chính sách đánh thuế nhập khẩu của
Mỹ vào hàng hóa xuất khẩu của một số đối tác làm chuyển dịch nhu cầu từ
hàng nhập khẩu nước bị đánh thuế sang hàng nước không bị đánh thuế,
trong đó có Việt Nam.
Điều này làm cho nhu cầu hàng hóa xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ tăng lên
hay “cầu tăng độ co giãn” khác với việc giảm giá đồng tiền để kích
thích xuất khẩu. Cùng hiện tượng xuất khẩu tăng nhưng khác nhau về
nguyên nhân. Thực tế xuất khẩu hàng Việt Nam sang Mỹ tăng là do tăng nhu
cầu hàng Việt Nam của người Mỹ gắn với căng thẳng hay chiến tranh
thương mại Mỹ - Trung bắt đầu từ năm 2018. Hơn nữa, doanh nghiệp Việt
Nam có nhiều kinh nghiệm hơn trong tổ chức hệ thống chuỗi cung ứng, kết
nối với thị trường Hoa Kỳ, quảng cáo sản phẩm gắn với hiểu rõ hơn nhu
cầu khách hàng nên kết quả bán hàng tăng lên. Do đó, nếu cáo buộc Việt
Nam thao túng tiền tệ để tăng xuất khẩu là bằng chứng cho thấy đây là
cáo buộc “oan” với Việt Nam.
Việt Nam cần tham vấn trực tiếp và cụ thể với phía Mỹ về cách thức
tính toán, xác định các tiêu chí phù hợp với nội dung kinh tế và điều
kiện thực tế Việt Nam thay vì chỉ tuân thủ tính chất pháp lý hình thức
vốn là bản chất của văn hóa kinh doanh Hoa Kỳ.
Do đó, cần chuẩn bị kỹ lưỡng về cơ sở dữ liệu đủ độ tin cậy để rà
soát lại tất cả tiêu chí khi tiến hành tham vấn trên nguyên tắc tôn
trọng các số liệu về kinh tế Việt Nam đã được chuyên gia quốc tế tính
toán nhất là về số liệu GDP điều chỉnh. Thậm chí có thể tính toán lại
tiêu chí và công bố với phía Mỹ trước khi tham vấn theo hướng giảm một
cách thuyết phục các kết quả này để tham vấn chuyển hướng đúng với thực
chất. Bên cạnh đó, cần tính toán cụ thể chỉ tiêu tỷ giá hối đoái thực tế
một cách rõ ràng và minh bạch để phù hợp với quy định của Đạo luật
2015.
Kết hợp nhiều tác động để tránh bị dán nhãn thao túng tiền tệ
Đây là tình huống phức tạp, chưa từng xảy ra cho nên Việt Nam chưa có
kinh nghiệm. Điều đó đòi hỏi kết hợp nhiều tác động để tạo kết quả tổng
hợp.
Trước hết, cần chủ động, tích cực khai thác tác động ngoại giao dựa
trên nền tảng vô cùng quy báu là khoảng thời gian 25 năm bình thường hóa
và phát triển quan hệ Việt- Mỹ. Coi trọng các động thái về ngoại giao
văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ để tăng sự hiểu biết và mở rộng
quan hệ hai nước lên một tầm cao mới. Thực tế cho thấy, quan hệ này đã
phát triển đúng hướng, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân 2
nước.
Việt Nam cần tính toán để mở rộng nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của
Mỹ nhằm thu hẹp thặng dư thương mại từ phía Việt Nam. Nhu cầu nhập khẩu
hàng hóa của Viêt Nam gần 300 tỷ USD cho nên việc điều chỉnh thị trường
nhập khẩu từ ngoài Mỹ sang nhập khẩu quy mô lớn hơn hàng hóa của Mỹ gồm:
phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị công nghiệp cao cấp, nông sản…và
dịch vụ.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang là nơi được nhiều nhà đầu tư Hoa Kỳ dịch
chuyển đầu tư từ Trung Quốc sang. Việt Nam là nơi mang lại lợi ích kinh
tế to lớn cho Hoa Kỳ về lâu dài. Doanh nghiệp Việt Nam cần liên doanh,
liên kết, hợp tác với đối tác Hoa Kỳ để sản xuất hàng hóa xuất khẩu sang
thị trường Hoa Kỳ thông qua hệ thống thương nhân hay đối tác nhập khẩu,
mạng lưới phân phối hàng hóa Hoa Kỳ.
Sự thắt chặt quan hệ và lợi ích đan xen nhau sẽ giảm thiểu các cáo
buộc vì nếu áp dụng biện pháp xử lý cáo buộc có thể gây thiệt hai cho
chính đối tác Hoa Kỳ nhiều hơn hay “gậy ông đập lưng ông”. Việc đẩy mạnh
xúc tiến, kêu gọi đối tác Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam kể cả mọi loại quy
mô là cần thiết.
Điều chỉnh cơ cấu dự trữ quốc tế như ổn định hoặc giảm dự trữ bằng
đồng USD và cần tăng dự trữ bằng các ngoại tệ khác như: đồng Euro, Nhân
dân tệ, Yên Nhật Bản, SDR, vàng hoặc đồng tiền của các đối tác thương
mại và đầu tư lớn của Việt Nam… nhằm tránh bị coi là can thiệp thị
trường tiền tệ quá ngưỡng với đồng USD. Cơ cấu dự trữ quốc tế này có thể
điều chỉnh linh hoạt khi cần cần thiết để đáp ứng yêu cầu dự trữ, ổn
định tiền tệ, chống lạm phát, bảo đảm cần bằng kinh tế vĩ mô.
Cần có cơ chế cảnh báo thường xuyên và chủ động về các cáo buộc tiền
tệ để tránh tình trạng thụ động trước tình huống bất ngờ. Cần xây dựng
bộ phận theo dõi và cảnh báo sớm trước các cáo buộc về thao túng tiền tệ
với đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách, nhà
quản lý chuyên ngành cùng với sự phối hợp quốc tế./.