Các chuyên gia cho rằng, chính sách hỗ trợ lần
hai cần được thiết kế có trọng tâm khi cả ngân sách lẫn công cụ tiền tệ
đều đang eo hẹp.
Tháng 2, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo các bộ,
ngành tiếp tục nghiên cứu về gói hỗ trợ lần hai. Nhiều doanh nghiệp và
người dân kỳ vọng vào các gói hỗ trợ này, trong bối cảnh Covid-19 vẫn
diễn biến phức tạp.
Trong ấn phẩm đánh giá kinh tế
Việt Nam năm 2020 vừa công bố sáng nay (31/3) của Đại học Kinh tế Quốc
dân (NEU), các tác giả cũng đánh giá, dư địa tài khóa của Việt Nam đang
thấp nhất trong khối các nước ASEAN-5, khiến việc thiết kế chính sách hỗ
trợ tiếp theo ngày một khó. Thâm hụt ngân sách dai dẳng, chi tiêu ngân
sách nhà nước cao với cơ cấu bất hợp lý (tỷ lệ chi chường xuyên chiếm
phần lớn) và tỷ lệ nợ công trên GDP cao.
Năm 2020,
Chính phủ ban hành gói hỗ trợ lần một với quy mô được lượng hoá tương
đương với 3% GDP. Nhưng thực tế, mức này vẫn thấp hơn nhiều so với mức
15% GDP của các nước đã phát triển, 10-12% GDP của các nước mới nổi
tương đương và mức 2-7% tại các nước Đông Nam Á.
Thực
tế này có thể hiểu được khi các chính sách hỗ trợ về thuế, phí hỗ trợ
người dân được ban hành trong bối cảnh Việt Nam có cải thiện nhẹ về tài
khoá, tỷ lệ nợ công trên GDP có xu hưởng giảm dần từ năm 2016. Tuy
nhiên, quy mô nợ gia tăng đang khiến nghĩa vụ trả nợ trên tổng thu ngân
sách tăng nhanh, ước tính đã chạm mức trần 25% cho phép trong năm 2020.
So với các quốc gia trong khối ASEAN-5, Việt Nam cũng là nước có tỷ lệ
nợ công trên GDP cao nhất, gần gấp đôi so với Indonesia, gần gấp rưỡi so
với Philippines hay Thái Lan.
Bởi vậy, các chính
sách hỗ trợ về thuế, tiền thuê đất nằm trong gói hỗ trợ lần một theo bà
Vũ Thị An, Giám đốc công ty tư vấn thuế C&A là dù kịp thời nhanh
nhạy nhưng còn rất khiêm tốn. Tiềm lực tài chính quốc gia còn hạn chế
khiến các gói hỗ trợ về thuế chủ yếu mang tính tâm lý động viên.
Do
những ràng buộc này, các chính sách tài khóa theo khuyến nghị của nhóm
nghiên cứu NEU, cần phải chi tiêu đúng trọng tâm, tiết kiệm, hỗ trợ các
đối tượng thực sự cần thiết. Ưu tiên cao nhất là hỗ trợ những người mất
việc làm, kể cả khu vực chính thức và phi chính thức, tiếp đến, là các
hỗ trợ về chi phí đối với doanh nghiệp bị ảnh hưởng.
Nhìn
lại việc gia hạn tiền nộp thuế và thuê đất trong năm 2020, nhóm nghiên
cứu NEU đánh giá chính sách còn hạn chế và chưa lan toả đến mọi đối
tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Thời gian gia hạn ngắn và sai lệch
trong dự báo dẫn đến hơn 65% tổng số tiền thuế dự kiến không được gia
hạn. Khoảng 83% doanh nghiệp và 84% hộ và cá nhân kinh doanh đủ điều
kiện hưởng lợi nhưng không tiếp cận được với chính sách.
Để
khắc phục hạn chế của chính sách lần một, nhóm nghiên cứu khuyến nghị
chính phủ nên tiếp tục mở rộng đối tượng và kéo dài thời gian, tùy thuộc
vào diễn biến thực tế của dịch bệnh. Tuy nhiên, việc gia hạn nộp thuế
và tiền thuê đất năm 2021 cần được thực hiện trên cơ sở đánh giá mức độ
hiệu quả của chính sách lần một, để xác định được những ngành, loại hình
doanh nghiệp cần hỗ trợ, cũng như mức độ hỗ trợ phù hợp tuỳ theo sức
ảnh hưởng của dịch bệnh.
Còn chính sách giảm 30%
thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020 cho doanh nghiệp, hợp tác xã và tổ
chức khác có tổng doanh thu không quá 200 tỷ đồng, theo nhóm nghiên cứu,
gây lãng phí ngân sách vốn đang rất hạn hẹp và cần được phân bổ cho
những mục đích chi tiêu ưu tiên khác.
Chính sách hỗ
trợ này nhằm cả vào đối tượng doanh nghiệp làm ăn có lãi và đang được
hưởng ưu đãi thuế, không riêng những đối tượng doanh nghiệp đang gặp khó
khăn. Giải pháp này do đó chưa nhắm trúng đối tượng, tạo ra sự bất bình
đẳng trong cộng đồng doanh nghiệp và có thể khiến môi trường kinh doanh
xấu đi.
Nếu nguồn lực tài chính cho phép, chính
sách này nên được thiết kế lại hướng vào hỗ trợ chi phí thay vì lợi
nhuận như hiện tại. Đối tượng thụ hưởng mục tiêu nên được xác định dựa
theo mức độ ảnh hưởng bởi đại dịch chứ không phải theo quy mô
Bên
cạnh đó, các chính sách hỗ trợ thông qua giảm phí, lệ phí lại dàn trải,
ít có tác động thực mà có thể gây lãng phí ngân sách. Do vậy, chính phủ
cần thu hẹp đối tượng thụ hưởng các chính sách hỗ trợ này dựa trên mức
độ chịu tác động bởi đại dịch, theo nhóm nghiên cứu.
Trong
khi đó, nhóm nghiên cứu của NEU khuyến nghị, các chính sách liên quan
đến an sinh xã hội phải được ưu tiên hàng đầu. Dịch Covid-19 còn có thể
tái bùng phát bất kỳ lúc nào, do vậy, các gói an sinh xã hội cho các đối
tượng bị ảnh hưởng cần được tiếp tục duy trì. Đối tượng thụ hưởng nên
được mở rộng và chú trọng tới nhóm lao động không có giao kết hợp đồng
thuộc khu vực phi chính thức.
Ngoài ra, Nhà nước
nên cho phép doanh nghiệp sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp để đào tạo kỹ
năng cho người lao động trong thời gian giãn việc, nghỉ việc. Người lao
động dù tạm thời chưa có việc làm cũng nên được duy trì tham gia bảo
hiểm xã hội, từ đó được bảo đảm các quyền lợi về bảo hiểm thất nghiệp và
bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Tương tự với tài khoá, dư địa cho chính sách tiền tệ của Việt Nam cũng chỉ còn rất hạn hẹp. Chính
sách tiền tệ nới lỏng cần hết sức thận trọng về quy mô và thời gian kéo
dài, đặc biệt là khi các hoạt động kinh tế sôi động trở lại, theo nhóm
nghiên cứu.
Năm 2020, tăng trưởng cung tiền và tăng
trưởng tín dụng không thấp hơn quá nhiều, nhưng tăng trưởng kinh tế chỉ
khoảng 40% so với con số tăng trưởng trung bình của hai năm trước đó
(năm 2018 và 2019). Rất có thể, một phần tăng trưởng tín dụng chỉ để
giúp duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp, hơn là để tạo ra hàng hóa và
dịch vụ mới. Thêm nữa, tăng trưởng tín dụng cao có thể là nhờ việc cơ
cấu lại nợ, phát hành trái phiếu chính phủ và hoặc do tín dụng không
trực tiếp đi vào sản xuất. Ngoài ra, vai trò của sự mở rộng tiền tệ -
tín dụng trong năm 2020 thiên về hỗ trợ đầu tư công và kéo dài sự tồn
tại của doanh nghiệp hơn là thúc đẩy đầu tư tư nhân và tạo ra sự tăng
trưởng mới của doanh nghiệp.
Giá cả tiêu dùng khá
ổn định nhưng bong bóng giá tài sản (bên cạnh nợ xấu) là một rủi ro đáng
quan ngại khi chính sách tiền tệ được nới lỏng. Giá chứng khoán và bất
động sản đều tăng bất thường trong năm 2020. Đây là những dấu hiệu đáng
lo ngại ban đầu của hiện tượng bong bóng giá tài sản khi tỷ lệ cung tiền
M2 trên GDP và tín dụng trên GDP đang lần lượt tiệm cận mốc 200% và
150%, vượt xa so với các nước trong khu vực ASEAN-5.
Trong
thời kỳ đại dịch, nhóm nghiên cứu đánh giá, công cụ lãi suất nói riêng
và chính sách tiền tệ nói chung thường ít hiệu quả trong việc kích thích
tổng cầu. Trong thời gian tới, các nỗ lực chính sách nên tập trung vào
việc cắt giảm lãi suất cho vay hơn là lãi suất huy động.
Nguyên
Phó viện trưởng chiến lược ngân hàng Phạm Xuân Hoè cũng khuyến nghị,
Ngân hàng Nhà nước cần rà soát, chỉ đạo để giảm lãi suất tiền vay nhanh
hơn nữa. Quốc hội hiện nay ấn định chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra
ngân hàng một năm không quá 4%. Ông đề nghị đưa mức này xuống 3,3-3,5%
để tạo điều kiện giảm lãi vay cho doanh nghiệp.
Bên
cạnh đó, các chuyên gia cũng khuyến nghị các chính sách hỗ trợ tín dụng
cần rõ ràng, minh bạch và gỡ bỏ rào cản không cần thiết. Như gói 16.000
tỷ đồng cho vay lãi suất 0% hỗ trợ doanh nghiệp trả lương cho người lao
động, ban hành rồi sửa đổi nhưng vẫn xa rời thực tế. Ngoài quy định
giảm doanh thu, điều kiện đặt ra để được vay gói này là doanh nghiệp có
người lao động đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, phải ngừng việc
từ một tháng liên tục trở lên.
Hơn nữa, chính sách
giữ nguyên nhóm nợ cho các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của Covid-19,
theo nhóm nghiên cứu NEU, cũng cần được rà soát và điều chỉnh để các
doanh nghiệp dễ tiếp cận hơn. Khi thời hạn cơ cấu lại nợ hết hiệu lực,
rất có thể nhiều khoản nợ xấu sẽ bộc lộ. Do vậy, các ngân hàng cần chủ
động đánh giá đầy đủ về những rủi ro có thể phát sinh từ các khoản nợ đã
được cơ cấu lại, trích lập dự phòng đầy đủ nếu cần thiết.
Quỳnh Trang
Nguồn: https://vnexpress.net/the-kho-cua-goi-ho-tro-covid-19-lan-hai-4255784.html