Theo
đó, 380 doanh nghiệp tại Hà Nội, Tp.HCM và Thanh Hóa thuộc 6 ngành sản
xuất khác nhau, gồm logistic; du lịch, lưu trú, ăn uống; dệt may; bất
động sản; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và công nghệ thông tin, đã được
chọn để phục vụ cho điều tra.
Và một kết quả khá bất ngờ cho nhóm nghiên cứu khi chỉ có 22,25% các doanh nghiệp nhận được hỗ trợ.
VẪN KHÓ ĐÁP ỨNG ĐIỀU KIỆN
Đại
diện nhóm nghiên cứu, PGS.TS Tô Trung Thành, Trưởng phòng Quản lý khoa
học, Trường đại học Kinh tế quốc dân cho biết: "trong các lý do doanh
nghiệp không nhận được các hỗ trợ thì có 54,67% doanh nghiệp cho rằng,
là vì họ không đáp ứng được điều kiện để nhận được hỗ trợ; có tới 25,95%
doanh nghiệp không biết đến các chính sách hỗ trợ, có 14,88% doanh
nghiệp trả lời: quy trình, thủ tục hỗ trợ còn quá phức tạp nên doanh
nghiệp không muốn tiếp cận các hỗ trợ".
Trong
số 22,25% doanh nghiệp được hỗ trợ, nhóm nhận được hỗ trợ nhiều nhất là
thuộc lĩnh vực du lịch; lưu trú, ăn uống (chiếm 36,36%), tiếp đến là
doanh nghiệp dệt may (chiếm 24,66%), logistics (chiếm 24,59%), bất động
sản (24,19%). Các lĩnh vực còn lại có tỷ lệ được hỗ trợ thấp hơn so với
mức trung bình chung, trong đó thấp nhất là nhóm công nghệ, chỉ có 6,67%
doanh nghiệp được hỗ trợ.
Nếu xét
theo quy mô, doanh nghiệp có quy mô vừa trở lên được hỗ trợ nhiều, doanh
nghiệp có quy mô từ 50 đến dưới 200 người có tỷ lệ được hỗ trợ cao
nhất, chiếm 37,74%, tiếp đến là doanh nghiệp có quy mô lớn, từ 200 người
trở lên, chiếm 34,04%. doanh nghiệp có dưới 10 người có tỷ lệ được hỗ
trợ chỉ khoảng 13%.
CẦN GÓI HỖ TRỢ KÈM CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐẶC BIỆT
Đánh
giá về tác động của các chính sách hỗ trợ, theo ông Tô Trung Thành, các
doanh nghiệp đều cho rằng các chính sách hỗ trợ có tác động tích cực.
Đặc biệt, các chính sách miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán điện tử; vay
không cần tài sản thế chấp đảm bảo tối đa 50% tiền lương tối thiểu vùng
đối với từng người lao động... thì 100% ý kiến của các doanh nghiệp cho
rằng có tác động tích cực.
Tuy
nhiên, các doanh nghiệp tham gia cuộc khảo sát cũng cho rằng, một số số
chính sách khác có tác động không đáng kể, ví dụ như chính sách hỗ trợ
chi phí logistics hàng hải, hàng không, đường bộ, đường thủy nội địa,
đường sắt...; hay chính sách rút ngắn thời gian xét duyệt hồ sơ vay
vốn...
Cụ thể, chính sách giảm 30%
thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020 cho các doanh nghiệp, hợp tác xã và
tổ chức khác có tổng doanh thu không quá 200 tỷ đồng ban hành theo Nghị
quyết 116/2020/QH14 (19/6/2020) và quy định chi tiết thi hành Nghị định
số 114/2020/NĐ-CP (25/9/2020) của Chính phủ. Theo Nhóm nghiên cứu, đối
tượng thụ hưởng của chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là
những doanh nghiệp làm ăn có lãi, tức là các doanh nghiệp đang hưởng lợi
hoặc ít chịu ảnh hưởng chứ không phải những doanh nghiệp đang gặp khó
khăn do đại dịch Covid-19. Do vậy, "việc ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp chưa thực sự hướng đến các doanh nghiệp gặp khó khăn do đại
dịch", báo cáo đánh giá.
Đối với
chính sách gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất theo Nghị định số
41/2020/NĐ-CP (8/4/2020), số doanh nghiệp thụ hưởng chính sách này không
đáng kể. Các lý do dẫn đến chính sách này chưa lan tỏa đến các đối
tượng chịu ảnh hưởng. Thứ nhất, do thời hạn giãn, hoãn thuế, phí, tiền
thuê đất cho doanh nghiệp quá ngắn nên các doanh nghiệp không được hưởng
lợi nhiều. Thứ hai, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, việc sản xuất kinh
doanh không triển khai được nên nhiều doanh nghiệp không có phát sinh
thuế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Thứ ba, nhiều doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ đã hoàn thành việc nộp thuế cho năm 2019 trong
quý I/2020, vì thế doanh nghiệp không làm giấy đề nghị gia hạn. Với tiền
thuê đất, nhiều doanh nghiệp đã nộp một lần, do đó doanh nghiệp không
xin gia hạn.
Chính sách hỗ trợ tín
dụng cho doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của Covid-19 cũng đang cho thấy một
số bất cập ở khâu thực thi khi doanh nghiệp muốn tiếp cận nguồn hỗ trợ
này phải đáp ứng các thủ tục phức tạp. Với các thủ tục này, nhóm doanh
nghiệp nhỏ và vừa, nhóm cần hỗ trợ nhất có thể lại là nhóm khó tiếp cận
chính sách nhất.
"Đa
số các doanh nghiệp trả lời rằng, cần thiết có gói hỗ trợ tiếp theo của
Chính phủ, đặc biệt là các chính sách như: vay không cần tài sản thế
chấp đảm bảo tối đa 50% tiền lương tối thiểu vùng đối với từng người lao
động; miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán điện tử; giảm 15% tiền thuê đất
phải nộp của năm 2020; tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội, kinh phí công
đoàn; hỗ trợ chi phí logistics hàng hải, hàng không, đường bộ, đường
thủy nội địa, đường sắt", báo cáo nhấn mạnh.
TĂNG SỨC ĐỀ KHÁNG CỦA NỀN KINH TẾ
Thời
gian qua, Chính phủ đã có những bước đi kiên quyết và đúng đắn, kiềm
chế sự lây lan bùng phát của đại dịch. PGS.TS Phạm Hồng Chương, Hiệu
trưởng Trường đại học Kinh tế quốc dân đánh giá, "đó là thành quả rất
đáng tự hào. Tuy nhiên, để có thể chiến thắng dịch bệnh trên cả hai mặt
trận y tế và kinh tế, ngay từ bây giờ, bên cạnh việc hạn chế dịch bệnh,
cần có những chính sách hợp lý nhằm tăng cường sức đề kháng của nền kinh
tế. Đồng thời, chuẩn bị đủ năng lực ứng phó khi dịch bệnh kéo dài. Từ
đó, tăng cường tiềm lực để phục hồi kinh tế nhanh chóng ngay khi dịch
bệnh được khống chế, không để nền kinh tế rơi vào suy thoái".
Để
thực hiện các chính sách hỗ trợ bệnh dịch cũng như thiên tai, nhóm
nghiên cứu nhấn mạnh, trong thời gian tới, "nguyên tắc cần được giữ vững
khi đưa ra chính sách là phải luôn giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Bất
kể bệnh dịch kéo dài bao lâu, nhiều DN có thể sẽ phá sản, Chính phủ vẫn
cần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô". Cần giữ lạm phát và lãi suất ở mức
thấp, tỷ giá ổn định, đầu tư công được thực hiện đúng mục đích và giám
sát tốt, môi trường đầu tư được cải thiện, thì sau bệnh dịch, nền kinh
tế mới hồi phục nhanh chóng. Ngược lại, sẽ mất nhiều năm tiếp theo để
giải quyết các vấn đề không phải bệnh dịch, nền kinh tế sẽ đình trệ
trong thời gian dài như giai đoạn hậu khủng hoảng 2007–2008.
Bên
cạnh những giải pháp ngắn hạn mang tính ứng phó với Covid-19, báo cáo
cho rằng, Chính phủ cần thực hiện các giải pháp mang tính dài hạn để
phát triển bền vững sau đại dịch. Cụ thể, đổi mới mô hình tăng trưởng
theo hướng dựa vào công nghệ - đổi mới sáng tạo. Tận dụng và khai thác
lợi thế của người đi sau, chuyển giao công nghệ từ FDI. Tiếp tục hoàn
thiện thể chế; xây dựng nhà nước kiến tạo, phát triển, liêm chính...