Vấn đề này được các chuyên gia kinh tế,
nhà khoa học thảo luận tại tọa đàm “Chuyển đổi số quốc gia từ góc nhìn
sản xuất” do Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng và Viện Chiến lược phát
triển kinh tế số (IDS) tổ chức mới đây.
Cần tầm nhìn xa, bước đi vừa phải
Dệt may là một trong những lĩnh vực có
khả năng ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số cao nhất, phù hợp nhất với
Việt Nam, nhưng thực tế đã cho thấy quá trình này rất tốn kém, cần đầu
tư lớn và quyết tâm cao của doanh nghiệp.
|
Để đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số thì cách thức phải linh hoạt và phù hợp với từng đơn vị, doanh nghiệp, từng ngành |
Chia sẻ về trường hợp của Công ty CP Sợi
Phú Bài, ông Lê Tiến Trường - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam
(Vinatex), cho biết năm 2020, công ty này quyết định đầu tư nhà máy sợi
hai tầng đầu tiên trong hệ thống các đơn vị ngành sợi của Vinatex với
quy mô 30.000 cọc sợi, công nghệ mới nhất của Thuỵ Sỹ, tổng vốn đầu tư
gần 600 tỷ đồng.
Đây là dây chuyền tự động, được số hóa
và quản trị tập trung đến từng cọc sợi tại trung tâm điều khiển, có thể
cung cấp sản lượng và chất lượng theo thời gian thực cho khách hàng
trong chuỗi cung ứng. Nhà máy chỉ sử dụng 130 công nhân (trung bình 35
công nhân/10.000 cọc sợi), diện tích xây dựng 9.000 m2. So với quy mô
của một nhà máy sợi tương tự, dự án này giảm 84% lao động và một nửa
diện tích đất xây dựng, chi phí tiết kiệm lao động bằng 120% chi phí
khấu hao tăng thêm của nhà máy mới.
Hiện, nhà máy nằm trong nhóm 3% doanh
nghiệp làm sợi tốt nhất toàn cầu, sử dụng luân chuyển bằng dàn treo,
robot, công nhân đi lại bằng xe điện; đồng thời còn lắp đặt hệ thống pin
năng lượng mặt trời trên mái nhà để đáp ứng xu hướng xanh hoá ngành dệt
may.
Đây chỉ là một trường hợp hiếm hoi bước
đầu chuyển đổi số thành công trong chuỗi sản xuất của ngành dệt may.
Theo ông Trường, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đầu tư mới như
Sợi Phú Bài. Các công ty sợi của Vinatex gồm nhiều nhà máy có tổng quy
mô 850.000 cọc sợi/năm, tuổi đời máy móc và công nghệ đa dạng; nhiều
thiết bị tuổi đời lên tới hơn 50 năm, không đạt chuẩn để chuyển đổi số,
nhưng cũng không thể bỏ đi để đầu tư mới thay thế.
Nếu đầu tư đồng loạt như Nhà máy sợi Phú
Bài, Vinatex cần tổng chi phí gần 20.000 tỷ đồng trong khoảng 3-4 năm,
trong khi vốn điều lệ của tập đoàn chỉ khoảng 5.000 tỷ đồng. Do đó,
Vinatex chọn giải pháp chuyển đổi số từng phần, mỗi năm thực hiện tại 3
nhà máy.
“Chuyển đổi số không phải một bộ giải
pháp có sẵn để doanh nghiệp lựa chọn áp dụng, mà là một quá trình vô
cùng vất vả, thách thức. Trong thời gian đầu, khối lượng công việc có
thể tăng gấp 1,6-1,7 lần, khiến bộ máy quản trị không chịu nổi áp lực
công việc đẩy lên trong quá trình chuyển đổi và dễ nản lòng. Thậm chí
nếu không chọn bước đi hợp lý, doanh nghiệp không có đủ nguồn lực để đến
đích khiến quá trình chuyển đổi số thất bại, dẫn tới câu chuyện đổ lỗi
cho bộ máy lãnh đạo chọn sai đường”, ông Trường lưu ý.
Nhà nước phải đặt hàng để tạo đột phá
Lắng nghe câu chuyện thực tế từ ngành
dệt may, các chuyên gia, nhà khoa học nhận định, thành quả đạt được
trong chuyển đổi số tại Việt Nam mới là bước đầu. Để quá trình này thực
chất và toàn diện thì yêu cầu đặt ra là phải đầu tư công nghệ, hạ tầng,
đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin; huy động được các nguồn lực tài
chính, đào tạo, thu hút được nguồn nhân lực… Quá trình này nếu không có
thể chế đi trước mở đường rất có thể dẫn đến thất bại.
GS. Trần Thọ Đạt - nguyên Hiệu trưởng
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, cho rằng nhìn một cách tổng thể, mặc dù
chưa có bộ chỉ tiêu đánh giá chuyển đổi số trong các ngành kinh tế quốc
dân nhưng qua ước đoán, cảm nhận, có thể thấy lĩnh vực sản xuất là khó
khăn nhất trong chuyển đổi số và mức độ đáp ứng đang là thấp nhất. Vì ở
mức độ thấp nhất, dư địa để tiến hành chuyển đổi số trong lĩnh vực sản
xuất còn rất lớn.
Từ thực tế, GS. Trần Thọ Đạt cũng cho
rằng tất cả các ngành trong nền kinh tế khi đứng trước tiến trình chuyển
đổi số đều phải đối diện tình thế tiến thoái lưỡng nan, đó là mua cái
mới hoàn toàn hay cải tạo cái cũ.
“Ở mức độ doanh nghiệp thì có thể thay
thế hoàn toàn như trường hợp Công ty CP Sợi Phú Bài, nhưng ở góc độ
ngành thì tiền đâu để nhân rộng được, nên vẫn phải cải tạo cái cũ”, ông
Đạt nhận định.
Từ đó GS. Trần Thọ Đạt lưu ý chuyển đổi số cần có tầm nhìn xa nhưng bước đi nhỏ, vì đó là cả một quá trình.
Ông Dương Quốc Anh - Phó Viện trưởng
IDS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội chia sẻ một góc nhìn
khác từ lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Ông Quốc Anh cho hay tài chính -
ngân hàng là một trong những ngành dịch vụ được đánh giá là chuyển đổi
số nhanh nhất trong nền kinh tế vì hội tụ một số điều kiện cần thiết.
Đây là ngành kinh doanh có điều kiện, với quy trình nghiệp vụ tương đối
chặt chẽ, có hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin và mạng thanh toán
liên thông giữa các ngân hàng; và quan trọng nhất là mỗi ngân hàng đều
có cơ sở dữ liệu khách hàng, là tài sản quan trọng nhất trong tiến trình
chuyển đổi số. Tuy nhiên, ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn về nguồn
lực, trong đó bao gồm cả nhân lực và vốn đầu tư. Song theo ông Quốc Anh,
khó khăn lớn nhất vẫn là sự thiếu đồng bộ của hành lang pháp lý.
Theo các chuyên gia, chuyển đổi số và
kinh tế số không chỉ đơn thuần là bài toán công nghệ mà quan trọng nhất
là thể chế, vì đây là vấn đề liên quan đến cái mới. Trong nhiều trường
hợp, kể cả có tiền đầu tư cũng chưa chắc đã làm được nếu thiếu chính
sách, do đó thể chế có tính chất mở đường.
PGS. TS. Trần Đình Thiên - Thành viên Tổ
tư vấn Kinh tế của Thủ tướng lưu ý, vai trò của Nhà nước trong việc mở
đường cho chuyển đổi số là rất quan trọng.
TS. Nguyễn Đức Kiên - Tổ trưởng Tổ tư
vấn Kinh tế của Thủ tướng cũng nhấn mạnh, để đẩy nhanh tiến trình chuyển
đổi số thì cách thức phải linh hoạt và phù hợp với từng đơn vị, doanh
nghiệp, từng ngành; trong đó Nhà nước phải là người đặt hàng và chịu
trách nhiệm chính nếu muốn bứt phá.
Một số vấn đề cụ thể về thể chế được ông
Kiên dẫn chứng là quy định về tài chính phải được tính toán lại. Vì
thiết bị công nghệ số thay đổi rất nhanh chóng, không thể tính thời gian
khấu hao kéo dài như thông thường và giá trị số là tài sản lớn, phải
được tính vào tài sản của doanh nghiệp, thay vì chỉ được tính tài sản
hữu hình như cơ chế hiện hành.