Kinhtedothi - Theo dự báo, tăng trưởng kinh
tế thế giới giảm xuống trong khi lạm phát gia tăng. Các chuyên gia chỉ
ra, còn nhiều thách thức từ bên ngoài và nội tại trong nước ảnh hưởng
tới kinh tế Việt Nam.
Ngày 25/4, Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân (KTQD) phối hợp cùng Ban Kinh tế Trung ương, Ủy ban Kinh tế của Quốc
hội tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia để đánh giá kinh tế Việt Nam năm
2021 và triển vọng năm 2022, đồng thời công bố ấn phẩm Đánh giá Kinh tế
Việt Nam thường niên 2021 của Trường.
Rủi ro dịch bệnh, xung đột chiến tranh
Nghiên cứu của trường Đại học KTQD dự báo, triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022 có thể đứng trước nhiều thách thức lớn.
Thứ nhất, đại dịch Covid-19 với những
biến chủng mới lây nhiễm mạnh, bất ổn chính trị thế giới leo thang cùng
giá dầu tăng mạnh có thể khiến con đường hồi phục toàn cầu và của các
nước bạn hàng lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc bị đe dọa; theo đó
ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư tại Việt Nam.
Thứ hai, việc chính phủ và ngân hàng
trung ương của các quốc gia lớn, đặc biệt là Mỹ, có động thái thắt chặt
tiền tệ do lo ngại lạm phát tác động đến kinh tế, tài chính thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Đối với Việt Nam, dư địa các chính sách
tài khóa và tiền tệ để hỗ trợ hồi phục kinh tế sẽ bị thu hẹp hơn.
Thứ ba, những rủi ro bất ổn vẫn còn hiện
hữu như tăng trưởng "nóng" trên thị trường bất động sản và chứng khoán.
Cụ thể, dòng vốn tín dụng chưa đi vào khu vực sản xuất và đổ vào thị
trường tài sản gây rủi ro tài chính; hệ thống ngân hàng còn nhiều chỉ
tiêu chưa lành mạnh như chất lượng tín dụng giảm và nợ xấu gia tăng; sức
ép lạm phát gia tăng....
"Những rủi ro này có thể tác động ngược
trở lại đến khu vực kinh tế thực, ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng
tăng trưởng", PGS.TS Tô Trung Thành - đại diện nhóm nghiên cứu trường
Đại học KTQD phân tích.
Báo cáo đánh giá, diễn biến giá dầu tăng
cao trong những tháng đầu năm 2022 đặt thêm những thách thức rất lớn
đến kinh tế. Cho đến ngày 11/3/2022, trung bình giá xăng dầu tăng 41 %
so với năm 2020 đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá tiêu dùng tăng 0,5%; chỉ
số giá sản xuất tăng 2,2%", PGS.TS Tô Trung Thành cho hay.
Ngoài ra, xung đột giữa Nga-
Ukraine làm tăng giá thực phẩm dầu thô, sắt gạo…, sự sụt giảm về nhu
cầu và chuỗi cung ứng đứt gãy sẽ ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam
Ông Francois Painchaud - Trưởng đại diện
IMF tại Việt Nam chia sẻ, câu chuyện lạm phát dự báo còn tăng mạnh hơn ở
nước kinh tế phát triển và đang phát triển. Tại rất nhiều quốc gia lạm
phát trở thành vấn đề quan tâm lớn. Hoa Kỳ và 1 số quốc gia châu Âu lạm
phát đã tăng ở mức cao nhất trong 40 năm trở lại đây.
“Thời điểm hiện tại có thể kiểm soát lạm
phát dưới 4% nhưng vẫn còn rủi ro. Khi khủng hoảng xảy ra, giá tài sản
và bất động sản tăng rất mạnh và các hoạt động đi kèm về định giá và
kiểm giá chưa tốt. Dự báo GDP của Việt Nam đạt 6% năm 2022 và 7% năm
2023 nếu vẫn duy trì được bình thường hoá các hoạt động kinh tế thương
mại, đầu tư” - Đại diện IMF tại Việt Nam phát biểu.
Chính sách tài khoá “chủ công” gói phục hồi kinh tế
Đánh giá cao chương trình hồi phục và
phát triển kinh tế là rất quan trọng, ông Francois Painchaud cho rằng,
chính sách tài khoá (giảm thuế, tăng đầu tư công) đóng vai trò quan
trọng vừa hỗ trợ sự phục hồi tổng cầu vừa thúc đẩy tiêu dùng thông qua
các chính sách giảm thuế.
“Hiện tại chính sách tiền tệ đang thể
hiện khả năng hỗ trợ nhất định tuy nhiên bị giới hạn trong tương lai, rõ
ràng NHNN cần thắt chặt hơn chính sách tiền tệ so với mục tiêu ban đầu.
Do đó, chính sách tài khoá phải đi đầu hỗ trợ với chính sách tiền tệ
trong việc hỗ trợ các hộ gia đình, DN tương lai” - ông Francois
Painchaud khuyến nghị và nhấn mạnh: Trong ngắn hạn, phát triển phục hồi,
trung hạn là tăng trưởng bền vững và bao trùm với huy động, nuôi dưỡng
về nguồn thu, thuế… củng cố tài khoá cũng như sự linh hoạt của chính
sách tiền tệ.
Theo TS Nguyễn Đình Cung, tăng trưởng
quý I đạt 5,3%, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5%, các quý còn lại
chắc chắn phải tăng trưởng trên 6%. Có thể sử dụng các gói phục hồi
kinh tế, nhưng ông Cung đặc biệt nhấn mạnh ở đầu tư công. Hiện nay, giải
ngân nguồn vốn này vẫn chậm. Tuy Thủ tướng Chính phủ yêu cầu đẩy nhanh
giải ngân đầu tư công, và đã có những ý kiến đề xuất thay đổi về biện
pháp giải phóng mặt bằng, tuy nhiên vấn đề nằm ở từng dự án chứ không
hẳn là vấn đề thể chế.
Bên cạnh đầu tư công, theo ông Nguyễn
Đình Cung những động lực chính cho tăng trưởng vẫn là xuất khẩu và thúc
đẩy tổng cầu. Tổng cầu nền kinh tế có tăng lên nhưng chưa đủ mức cao như
những năm trước, đó là lý do giải thích lạm phát cao nhưng chỉ số CPI
vẫn thấp. Về xuất khẩu, tuy các yếu tố bên ngoài tác động không thuận,
nhưng TS Nguyễn Đình Cung tin rằng xuất khẩu năm nay vẫn đạt tốc độ tốt
vì những thị trường chủ yếu của Việt Nam vẫn có nhu cầu lớn.
Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương - TS
Nguyễn Đức Hiển nhận định, trong điều kiện dư địa chính sách dần thu
hẹp, các chính sách cần hướng nguồn lực ưu tiên đến khu vực DN, tạo điều
kiện cho khu vực DN phục hồi và phát triển trong đại dịch; đặc biệt là
những DN có ảnh hưởng lan tỏa lớn đến nền kinh tế. Về dài hạn, việc
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế đặt ra mạnh mẽ để chủ động thích ứng và có những
bước đi phù hợp; đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực… trong
bối cảnh mới.
Trâm Anh
Link: https://kinhtedothi.vn/thach-thuc-tang-truong-thap-lam-phat-cao.html