Tỷ giá và
lãi suất đang là vấn đề thu hút sự quan tâm lớn của giới kinh tế - tài
chính, không chỉ vì tác động lớn của nó đến tăng trưởng kinh tế, nền
tảng vĩ mô ở thời điểm hiện tại mà còn bởi tính chất bất định trong
tương lai. Về vấn đề này, Tạp chí điện tử Kinh tế Chứng khoán đã có cuộc trao đổi với PGS.TS. Phạm Thế Anh, Trưởng Bộ môn Kinh tế vĩ mô, Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU).
PV:
Ông có bình luận gì về hệ lụy của việc tăng lãi suất, trượt tỷ giá và
cách điều hành của Ngân hàng Nhà nước đối với vấn đề này?
PGS.TS Phạm Thế Anh: Về
bản chất, Việt Nam neo tỷ giá vào USD. Thời gian qua, USD lên giá rất
mạnh, do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất liên tục. VND neo
vào USD nên mất giá khá nhanh so với USD, từ đầu năm đến nay khoảng 7%.
Có
thể nói việc theo đuổi chính sách neo tỷ giá có những hạn chế nhất
định. Đơn cử Ngân hàng Nhà nước phải đảm bảo các cam kết về giá trị đồng
nội tệ. Nếu VND trượt giá mạnh, Ngân hàng Nhà nước phải bán ngoại tệ để
giữ ổn định tỷ giá; nếu bán ngoại tệ cũng không giữ được thì phải tăng
lãi suất.
Neo tỷ giá cũng khiến
cho Việt Nam mất đi sự độc lập về chính sách tiền tệ khi theo đuổi các
mục tiêu khác và các cú sốc chính sách từ Mỹ truyền tải mạnh hơn vào
kinh tế trong nước.
Vừa rồi, Ngân
hàng Nhà nước đã phải bán ra lượng lớn USD (hơn 20 tỷ USD), khiến dự
trữ ngoại hối sụt giảm mạnh. Thị trường chuyển từ trạng thái dư thừa
sang thiếu cung ngoại tệ rất nhanh. Một phần nguyên nhân là người dân,
doanh nghiệp tích trữ USD do kỳ vọng USD còn tiếp tục lên giá. Ngoài ra,
thị trường còn xuất hiện tình trạng đầu cơ khi mua từ ngân hàng và bán
USD trên thị trường tự do. Những hiện tượng này khiến khả năng cam kết
về tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trở nên yếu đi rất nhiều.
|
PGS. TS Phạm Thế Anh đánh giá chính sách neo tỷ giá vào USD khiến Việt Nam mất đi sự độc lập về chính sách tiền tệ. |
Tiếp
sau nỗ lực bán USD giữ tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước đã phải sử dụng công
cụ lãi suất. Cuối tháng 9 vừa qua, lãi suất điều hành chính thức tăng 1
điểm %. Mặc dù vậy, mới đây, biên độ tỷ giá cũng đã phải nâng lên 5%,
cho thấy hiệu quả bảo vệ tỷ giá không được như kỳ vọng.
Mặt
khác, cú tăng lãi suất lại gây ra ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp
trong nền kinh tế Việt Nam. Như chúng ta đều biết, đặc thù của doanh
nghiệp Việt Nam là phụ thuộc rất lớn vào tín dụng. Doanh nghiệp hiện nay
tiếp cận vốn đã khó khăn, việc tăng lãi suất càng khiến mức độ khó khăn
nhân lên gấp bội. Dòng tiền, gánh nặng nợ nần trở thành mối lo lớn nhất
của cộng đồng doanh nghiệp, trực tiếp tác động vào triển vọng tăng
trưởng của nền kinh tế.
Như vậy,
có thể thấy chính sách neo tỷ giá có nhiều nhược điểm. Trước đây, Việt
Nam thực hiện neo tỷ giá với hy vọng hạn chế nhập khẩu lạm phát (hay
hiệu ứng chuyển của tỷ giá vào giá cả trong nước). Tuy nhiên, thực tế
cho thấy neo tỷ giá không hẳn chống được lạm phát. Những năm 2007 –
2011, Việt Nam cũng neo tỷ giá nhưng không chống được lạm phát. Nguyên
nhân của lạm phát là tăng trưởng cung tiền quá cao, thâm hụt tài khóa,
thương mại trầm trọng. Do đó, về bản chất, để chống lạm phát thì phải
kiểm soát cung tiền và giảm thâm hụt.
PV: Vậy làm thế nào hóa giải thách thức đồng USD mạnh lên và chưa có dấu hiệu dừng lại, thưa ông?
PGS.TS Phạm Thế Anh: Tôi
cho rằng Chính phủ có thể cân nhắc chuyển dần từ chính sách neo tỷ giá
vào USD sang chế độ thả nổi có điều tiết. Đây là cách mà nhiều nước đã
chọn sau khủng hoảng tài chính châu Á.
Theo
cách này, ngân hàng trung ương không công bố tỷ giá trung tâm. Tỷ giá
sẽ do thị trường quyết định theo cung cầu. Ngân hàng trung ương điều
tiết bằng cách sử dụng các công cụ mua bán ngoại tệ, bơm hút tiền. Chính
sách tỷ giá này sẽ giúp hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ.
Còn
hiện nay, đối diện với việc USD lên giá, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thực hiện việc điều chỉnh tỷ giá dần dần. Nhưng chính việc điều chỉnh
dần dần này đã nuôi dưỡng kỳ vọng của người dân, doanh nghiệp về việc
cầm USD sẽ có lợi, hệ quả là họ găm giữ USD, không bán lại cho ngân hàng
nữa.
Chênh lệch giữa giá mua và
giá bán ngoại tệ tăng cao cũng khiến cho doanh nghiệp bị thiệt hại khi
bán USD cho ngân hàng. Như vậy, đến một lúc nào đó, Ngân hàng Nhà nước
buộc phải phá giá mạnh đồng tiền, hoặc tăng lãi suất. Cả hai lựa chọn
này đều tác động xấu tới nền kinh tế.
|
PGS.TS
Phạm Thế Anh cho rằng Chính phủ có thể cân nhắc chuyển dần từ chính
sách neo tỷ giá vào USD sang chế độ thả nổi có điều tiết. |
Cũng
có quan điểm lo ngại việc thả nổi có điều tiết tỷ giá có thể làm tỷ giá
biến động dữ dội hơn, tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước có công cụ để quản
lý biến động, chứ không thả nổi hoàn toàn. Trong các nền kinh tế tiên
tiến, thị trường ngoại tệ sẽ phát triển các công cụ phòng vệ rủi ro tỷ
giá. Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam không phát
triển các công cụ này, hoặc có nhưng với chi phí rất lớn, nên tác động
của việc điều chỉnh tỷ giá là rất lớn.
Nếu
ta cho phép thị trường phái sinh tỷ giá triển khai thì nó có thể được
trao đổi như các sản phẩm chứng khoán khác. Công cụ phái sinh sẽ giúp
các bên giảm bớt rủi ro tỷ giá. Thông qua việc mua bán phái sinh thay vì
mua bán USD thật, kho dự trữ của Ngân hàng Nhà nước được giảm thiểu tác
động.
PV: Với các nhận định như trên, ông dự báo đường đi của lãi suất và tỷ giá trong quý IV/2022 sẽ thế nào?
PGS.TS Phạm Thế Anh: Dự
báo một yếu tố có tính bất định như tỷ giá là rất khó, đặc biệt trong
bối cảnh hiện nay nó không chỉ phụ thuộc vào tình hình kinh tế trong
nước mà còn phụ thuộc cả vào tình hình và chính sách của các nước lớn
trên thế giới. Tôi cho rằng việc Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất vừa
rồi là động thái để bảo vệ tỷ giá hơn là để chống lạm phát, vì lạm phát
đến 9 tháng vẫn đang trong tầm kiểm soát, chưa kể là nhiều loại giá cả
đã đi qua đỉnh của nó.
Thời gian
tới, Fed vẫn tiếp tục tăng lãi suất, theo đó sức ép với tỷ giá và lãi
suất trong nước tiếp tục tồn tại. Quan điểm của tôi cho rằng, nếu phải
hành động, Ngân hàng Nhà nước nên ưu tiên mục tiêu lãi suất, bởi vì sự
gia tăng của nó sẽ có tác động xấu với sự phục hồi kinh tế và ổn định
của thị trường tài chính trong điều kiện hiện nay.
Xin cảm ơn ông!