Theo
thông lệ hàng năm, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp cùng Ban
Kinh tế Trung ương, Ủy Ban Kinh tế của Quốc hội sẽ tổ chức Hội thảo Khoa
học Quốc gia để đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm
2022, đồng thời công bố ấn phẩm Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên
2021 của Trường. Chủ đề của Hội thảo cũng như của ấn phẩm thường niên
năm nay là “Kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022: Ổn định
kinh tế vĩ mô và lành mạnh tài chính trong bối cảnh đại dịch COVID-19”.
Phát biểu tại Hội thảo, TS. Nguyễn
Đức Hiển – Phó Trưởng ban kinh tế Trung ương nêu rõ, năm 2021 chứng
kiến những khó khăn và thách thức chưa từng có của nền kinh tế. Đại dịch
COVID-19 diễn biến phức tạp hơn với tốc độ lây lan rất nhanh do chủng
mới Delta, Omicron. Số ca lây nhiễm và tử vong đều tăng cao và diễn biến
hết sức phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nhiều tỉnh
thành phố lớn phải giãn cách xã hội trong bối cảnh tỷ lệ tiêm vaccine
còn thấp. Diễn biến này đã ảnh hưởng lớn đến về sức khỏe và tính mạng
của người dân, tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế và mọi mặt của đời
sống xã hội.
Về phía cầu, do đại dịch bùng phát và
thực hiện giãn cách xã hội trên diện rộng khiến thu nhập cũng như nhu
cầu tiêu dùng giảm sút mạnh. Trong khi đó, một động lực quan trọng cho
hỗ trợ tăng trưởng là đầu tư công thì chưa tạo được đột phá.
Về phía cung, sản xuất của các ngành
quan trọng bị ảnh hưởng lớn như vận tải, kho bãi; du lịch lưu trú ăn
uống; giáo dục đào tạo; ngành công nghiệp chế biến chế tạo, … do nhu cầu
giảm mạnh và gia tăng chi phí sản xuất. Những biện pháp phòng chống
dịch bệnh cực đoan và thiếu nhất quán giữa các địa phương cũng ảnh hưởng
lớn đến chi phí vận chuyển, logistics cũng như làm đứt gãy chuỗi cung
ứng cho các doanh nghiệp…
Rủi ro bất ổn vĩ mô và bất ổn tài chính đang gia tăng
PGS.TS. Tô Trung Thành, Đại học Kinh tế quốc dân – đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, rủi
ro bất ổn vĩ mô và bất ổn tài chính đang gia tăng. Lạm phát kỳ vọng gia
tăng do yếu tố chi phí đẩy và chính sách nới lỏng tiền tệ kéo dài. Dư
địa chính sách tài khóa hạn hẹp hơn, thu ngân sách có thể khó khăn khi
kinh tế suy giảm và thị trường tài sản điều chỉnh mạnh, trong khi chi
ngân sách cho các gói kích thích kinh tế gia tăng.
Bên cạnh đó, tăng trưởng cung tiền và
tăng trưởng tín dụng không thấp hơn quá nhiều so với năm trước (chưa kể
phát hành trái phiếu doanh nghiệp tăng mạnh trong năm) nhưng tăng
trưởng kinh tế đạt thấp nhất trong vòng hai thập kỷ gần đây. Điều này
đặt ra nghi vấn về đích đến cuối cùng và/hoặc hiệu quả của dòng tiền/tín
dụng trong nền kinh tế.
“Tín dụng, bằng các cách khác nhau,
có thể không trực tiếp đi vào sản xuất mà trực tiếp hoặc gián tiếp đi
vào thị trường tài sản, nguy cơ bong bóng tài sản là hiện hữu”, PGS.TS. Tô Trung Thành nhấn mạnh.
Đặc biệt, dấu hiệu trở nên đáng lo
ngại khi tỷ lệ M2/GDP và tín dụng/GDP của Việt Nam vượt xa so với các
nước trong khu vực ASEAN-5. Số liệu về tín dụng/GDP cũng cho thấy hiện
tại Việt Nam đang có mức cao hơn so với các nước trong khu vực, đã tiến
sát 150% vào cuối năm 2020. Khi tăng trưởng kinh tế dưới mức tiềm năng,
các nguồn lực không được sử dụng hiệu quả, cung tiền không giảm hoặc gia
tăng sẽ là yếu tố tác động lên lạm phát trung và dài hạn.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng
đã nới lỏng một số quy định an toàn hệ thống để hỗ trợ hệ thống và nền
kinh tế ứng phó với đại dịch. Sau một thời gian dài có xu hướng giảm thì
nợ xấu đã tăng trở lại.
Những ngành có khả năng sinh lời thấp
và tình hình tài chính xấu đi cũng là những ngành có tỷ lệ nợ xấu cao
tròn hệ thống các tổ chức tín dụng. Nợ xấu ngành Xây dựng hiện đang ở
mức rất cao, ước tính khoảng 6 – 6,5%, các ngành khai khoáng ở mức 5,8 –
5,9%, ngành Vận tải, kho bãi, dịch vụ lưu trú và ăn uống nợ xấu đã xấp
xỉ ở mức 3%. Ngành bất động sản tuy tỷ lệ nợ xấu công bố chính thức ở
mức thấp, chỉ khoảng 1,85%/năm 2020 (theo công bố của Ngân hàng Nhà
nước) và ước tính chỉ khoảng 1,9 – 2%/năm 2021, nhưng lại là ngành có
rủi ro lớn do sử dụng đòn bẩy cao, rủi ro chéo với hệ thống Ngân hàng
thương mại lớn. Đáng lưu ý là nợ xấu của các ngành này đang tăng cao từ
nửa cuối năm 2021.
Những khó khăn của khu vực kinh tế
thực cuối cùng có thể sẽ lây nhiễm sang khu vực tài chính. Những rủi ro
bất ổn và thiếu lành mạnh đã xuất hiện trên các thị trường chứng khoán
(thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu
doanh nghiệp) và thị trường bất động sản.
Cơ hội và thách thức
Kế hoạch và thực tế tăng trưởng ở
Việt Nam năm 2021 đã có khoảng cách rất lớn do những thay đổi thất
thường của dịch bệnh và các chính sách giãn cách chặt chẽ trong bối cảnh
vắc xin chưa được tiêm bao phủ trên toàn quốc.
Tuy nhiên, trong năm 2022, kế hoạch
tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn đặt ra tương tự năm 2021 (từ 6 – 6,5%),
mức cao nhất so với các nước trong khu vực.
“Mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 6 –
6,5% theo kế hoạch Chính phủ là có thể đạt được. Tình hình dịch bệnh
năm 2022 đã rất khác so với năm 2021, khi tỷ lệ tiêm phủ vắc xin đã ở
mức rất cao, tạo điều kiện cho nền kinh tế mở cửa trở lại; thực hiện
chuyển hướng chiến lược từ phòng, chống dịch sang “thích ứng an toàn,
linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, Báo cáo nêu rõ.
Theo đó, các hoạt động sản xuất kinh
doanh về cơ bản đã quay trở lại trạng thái bình thường mới, khả năng
giãn cách xã hội chặt chẽ gây ảnh hưởng tiêu cực, nặng nề đến nền kinh
tế khó có khả năng xảy ra trong năm 2022.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban
hành Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về Chương trình phục hồi kinh tế
– xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về Chính
sách tài khóa, hỗ trợ Chương trình. Quy mô của gói hỗ trợ này lên đến
350.000 tỷ đồng, là gói hỗ trợ phục hồi kinh tế lớn nhất từ trước đến
nay.
Tuy nhiên, PGS.TS. Tô Trung Thành cũng nhận định rằng, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 cũng đứng trước những thách thức lớn.
Thứ nhất: Đại dịch Covid-19 với các
biến chủng mới có tốc độ lây nhiễm mạnh, bất ổn chính trị thế giới leo
thang cùng giá dầu tăng mạnh có thể khiến con đường phục hồi toàn cầu và
cửa các nước bạn hàng lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung QUốc bị đe
doạ, theo đó ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư của Việt Nam.
Thứ hai: Việc Ngân hàng Trung ương
của các quốc gia lơn, đặc biệt là Mỹ, có động thái thắt chặt tiền tệ do
lo ngại lạm phát sẽ có tác động đến kinh tế, tài chính thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng.
Thứ ba: Những bất ổn đối với nền kinh
tế Việt Nam vẫn còn những hiện hữu như: tăng trưởng “nóng” trên thị
trường bất động sản và chứng khoán; dòng vốn tín dụng chưa đi vào khu
vực sản xuất và đổ vào thị trường tài sản gây rủi ro tài chính; hệ thống
ngân hàng còn nhiều chỉ tiêu chưa lành mạnh như: chất lượng tín dụng
giảm và nợ xấu tăng; sức ép lạm phát đang dần gia tăng… Những rủi ro này
có thể tác động trở ngược lại đến khu vực kinh tế thực, ảnh hưởng đến
tốc độ và chất lượng tăng trưởng.
Khuyến nghị về chính sách
Về Chính sách tài khoá
Chính sách tài khoá nghịch chu kỳ: mở
rộng chi tiêu, chấp nhận bội chi cao, ưu tiên cho tăng trưởng. Đây
chính là chính sách hỗ trợ quan trọng nhất. Gia tăng hỗ trợ tài khoá
5-6% GDP trong ít nhất 2 – 3 năm.
Báo cáo nhấn mạnh, chính sách hiệu
quả chỉ khi chi tiêu đầu tư công hiệu quả. Hiệu quả chi tiêu công sẽ là
nhân tố quyết định bền vững nợ công. Cần cải cách thể chế đầu tư công,
nâng cao hiệu quả đầu tư công. Đảm bảo giải ngân nhanh chóng nhưng phải
có hiệu quả, tránh lãng phí, thất thoát, tham nhũng.
Chính sách tiền tệ
Chính sách lãi suất cần tập trung vào việc cắt giảm lãi suất cho vay hơn là lãi suất huy động;
Chính sách tín dụng ưu đãi có chọn
lọc với hai điểm khác biệt: có sự tham gia của Ngân sách Nhà nước và tập
trung vào các ngành kinh tế có tính lan toả cao;
Chú trọng vào việc hướng chuyển các
dòng vốn tín dụng vào các khu vực sản xuất và nền kinh tế thực, kiểm
soát chặt chẽ tăng trưởng nóng ở các thị trường tài sản.
Chính sách lành mạnh tài chính
Đối với hệ thống ngân hàng:
Nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng sự minh bạch và tuân thủ các chuẩn
mực, thông lệ quốc tế. Luật hoá Nghị quyết 42, rà soát toàn diện các
luật khác có liên quan đến xử lý nợ xấu và xử lý tài sản đảm bảo của
khoản nợ xấu.
Đối với thị trường chứng khoán: Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp theo hướng minh bạch gắn với xếp hạng tín nhiệm;
Đa dạng hoá sản phẩm chứng khoán, phát triển các nhà đầu tư có tổ chức;
Xây dựng và hoàn thiện quy trình quản lý rủi ro hệ thống đảm bảo tính ổn định cho toàn thị trường;
Đẩy mạnh giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về chứng khoán.
Đối với thị trường bảo hiểm: Xem xét áp dụng quản lý giám sát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm theo hướng quản lý vốn trên cơ sở rủi ro.
Đối với thị trường bất động sản: Xem xét trái phiếu doanh nghiệp bđs như một khoản nợ bất động sản dưới chuẩn;
Hoàn thiện thể chế với việc định giá,
tư vấn, phát hành, mua bán trái phiếu doanh nghiệp theo hướng loại bỏ
mọi xung đột lợi ích trên thị trường;
Giảm đầu cơ trên thị trường bất động
sản, loại bỏ xung đột lợi ích cơ bản trên thị trường bất động sản, tính
tới nhanh chóng áp dụng Luật tài sản.
Trần Thuỳ
Link:
https://doanhnghiepvadautu.net.vn/on-dinh-kinh-te-vi-mo-va-lanh-manh-tai-chinh-trong-boi-canh-dai-dich-covid-19/