PGS.TS.
Tô Trung Thành, Trưởng phòng Phòng Quản lý Khoa học và nghiên cứu giảng
dạy, Khoa Kinh tế học Trường Đại học Kinh tế Quốc dân chia sẻ tại Hội
thảo Khoa học Quốc gia:
Kinh tế
Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022: “Ổn định kinh tế vĩ mô và
lành mạnh tài chính trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và Công bố ấn phẩm
Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên 2021”, do Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân phối hợp cùng Ban Kinh tế Trung ương, Ủy Ban Kinh tế của Quốc
hội tổ chức ngày 25/4.
PGS.TS. Tô Trung Thành.
Đánh
giá về tốc độ và chất lượng tăng trưởng suy giảm mạnh tại khu vực kinh
tế thực của Việt Nam năm 2021, theo PGS.TS. Tô Trung Thành, nguyên nhân
chủ yếu từ cú sốc suy thoái nặng nề trong quý III với sự lan rộng của
biến chủng Delta trong khi tỷ lệ tiêm chủng còn rất thấp, đã gần như vô
hiệu hoá các nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh và truy vết của Chính phủ, vốn
đã rất thành công trong năm 2020.
Khu vực kinh tế thực suy giảm mạnh
Các
chính sách phản ứng còn chưa hiệu quả, thiếu nhất quán giữa các địa
phương, nhiều khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước đã bị phong toả
trong thời gian dài. Trong khi các quốc gia khác trong khu vực phục hồi
khá tốt sau năm 2020 suy giảm, Việt Nam trở thành quốc gia có độ trễ một
năm về tác động nặng nề của đại dịch COVID-19.
Tỷ
lệ tổng đầu tư xã hội/GDP đạt 34,43%, gần như không đổi so với mức của
các năm gần đây; tăng trưởng tín dụng đạt 13,53%, tăng cao hơn so với
mức 12,17% của năm 2020.
Theo đó,
động lực tăng trưởng chính trong nền kinh tế là vốn đầu tư và tín dụng
vẫn được duy trì, tuy nhiên hiệu quả của đầu tư và tín dụng suy giảm.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng TFP của Việt Nam năm 2021 là -1,6%, so với tăng
0,7% năm 2020, trong khi hầu hết các nước trong khu vực và Trung Quốc
đều có sự cải thiện đáng kể.
Năng
suất lao động của toàn nền kinh tế, theo giá so sánh, năm 2021 chỉ
tăng 4,71%, thấp hơn mức tăng 4,9% năm 2020, và cũng là mức tăng thấp
nhất từ năm 2014 cho đến nay.
Năng
suất lao động của Việt Nam theo ngang giá sức mua PPP chỉ bằng 1/3 của
Malaysia, 1/1,7 của Trung Quốc và Thái Lan chênh lệch tuyệt đối về năng
suất lao động giữa Việt Nam với Trung Quốc và ASEAN còn ở mức khá cao.
Khởi sắc kinh tế số
Tuy
nhiên, trong bối cảnh khó khăn của đại dịch COVID-19, PGS.TS. Tô Trung
Thành cho rằng, đổi mới sáng tạo và kinh tế số - những động lực tăng
trưởng mới của nền kinh tế trong bối cảnh mới – đã có những dấu hiệu
khởi sắc. Việt Nam xếp thứ 44 trong 132 quốc gia, dẫn đầu các nền kinh
tế có thu nhập trung bình thấp, trong Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu.
Điểm
hạn chế của Việt Nam trong chỉ số này vẫn là thể chế, đứng ở vị trí
thấp nhất trong các trụ cột trong những năm gần đây, bên cạnh trụ cột về
hạ tầng và nguồn nhân lực cũng có mức xếp hạng thấp và hầu như không có
cải thiện.
Trong khi đó, kinh tế số
(KTS) đã mở ra nhiều cơ hội để phát triển kinh tế. Nền KTS của Việt Nam
năm 2021 đạt khoảng 21 tỷ USD (chiếm khoảng 6% GDP), tương đương quy mô
KTS của Malaysia, đứng sau Indonesia và Thái Lan.
Tốc
độ tăng trưởng KTS năm 2021 lên đến 31%, tăng trưởng nhanh thứ 2 Đông
Nam Á, sau Indonesia. Dự báo, KTS của Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ
trong thời gian tới, dự kiến sẽ vượt Thái Lan, đứng vị trí thứ hai trong
khu vực, sau Indonesia vào năm 2025.
“Như
vậy, chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam chưa có nhiều cải thiện,
hiệu quả đầu tư và tín dụng chưa cao, tăng trưởng TFP và năng suất lao
động suy giảm, môi trường thể chế còn điểm nghẽn. Nhưng cơ hội cho kinh
tế Việt Nam là sự phát triển nhanh chóng của KTS và quá trình đổi mới
sáng tạo được tăng cường mạnh mẽ”, PGS.TS. Tô Trung Thành nói.
Tốc độ tăng trưởng đầu tư chậm lại
Phân
tích về cơ cấu tăng trưởng, PGS.TS. Tô Trung Thành cho biết, vốn đầu tư
toàn xã hội năm 2021 thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.891,9 nghìn tỷ
đồng, chiếm 34,43% GDP, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, giảm so với
mức tăng 4,12% của năm 2020.
Toàn cảnh hội thảo.
Tốc
độ tăng trưởng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước (chiếm tỷ trọng 24,7%)
và FDI (15,8%) đều giảm so với năm ngoái (giảm tương ứng 2,9% và 1,1%).
Điều này phản ánh tốc độ tăng trưởng đầu tư đã chậm lại, nguyên nhân
chính là từ tốc độ giải ngân đầu tư công đã không duy trì được tốc độ
nhanh như năm 2020.
Tiêu dùng cuối
cùng mặc dù phần nào phục hồi khi đạt được mức tăng 2,09%, cao hơn so
với mức tăng 1,06% của năm 2020, nhưng vẫn ở mức rất thấp so với trước
đại dịch. Có thể thấy rõ hơn thông qua tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng năm 2021 giảm 3,8% so với năm trước, nếu loại trừ
yếu tố giá thì mức giảm là 6,2%.
Theo
cơ cấu ngành sản xuất; ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2021 tăng
trưởng 2,9% (so với 0,61% của năm 2020) và đóng góp 14% vào tăng trưởng
GDP. Ngành công nghiệp và xây dựng tăng trưởng 4,05%, so với 3,98% của
năm 2020, đóng góp 42,6% vào tăng trưởng GDP.
Trong
khi đó, đại dịch tác động mạnh đến ngành dịch vụ, với mức tăng 1,22%
(so với 2,34% năm 2020), đóng góp 46,1% vào tăng trưởng GDP. Với tỷ
trọng đóng góp lớn đến GDP, trong khi bị tác động nặng nề nhất do đại
dịch COVID-19, ngành dịch vụ đã kéo giảm mức tăng trưởng của năm 2021.
Chi
tiết vào các ngành sản xuất, một số ngành đã có sự hồi phục tốt như
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến chế tạo, sản xuất
điện, hoạt động ngân hàng, tài chính và bảo hiểm, ngành y tế và hoạt
động trợ giúp xã hội. Ngược lại, một số ngành tiếp tục đà giảm sâu từ
năm 2020, như ngành vận tải kho bãi, dịch vụ lưu trú và ăn uống, hoạt
động hành chính và dịch vụ hỗ trợ.
Áp lực đè nặng lên doanh nghiệp
Về
tình hình hoạt động của doanh nghiệp, năm 2021 chứng kiến số doanh
nghiệp đăng ký thành lập mới đều giảm sâu về số lượng, số lao động và
lượng vốn đăng ký. Trong khi đó, số lượng doanh nghiệp đóng cửa, tạm
dừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể,
rút lui khỏi thị trường đều gia tăng rất mạnh. Điều này phản ánh những
khó khăn rất lớn của khu vực doanh nghiệp trong năm. Những nguyên nhân
cơ bản có thể kể đến như sau.
Đứt
gẫy chuỗi cung ứng. Các chính sách phản ứng với làn sóng lây nhiễm thứ 4
còn nhiều hạn chế, cứng nhắc, thiếu nhất quán giữa các địa phương đã
dẫn đến các hệ quả là gián đoạn nguồn cung nguyên vật liệu, đầu vào,
hàng hóa.
Nhiều doanh nghiệp trong
chuỗi sản xuất của ngành phải đóng cửa sản xuất do không đáp ứng được
những yêu cầu phòng chống dịch tại địa phương, nhiều doanh nghiệp nằm
trong chuỗi sản xuất toàn cầu, khu trú chủ yếu ở các tỉnh bị ảnh hưởng
nặng nề bởi COVID-19 phải tạm ngừng hoạt động hoặc thu hẹp sản xuất, dẫn
đến đứt gẫy cả chuỗi cung ứng quốc tế.
Chi
phí sản xuất gia tăng mạnh. Để đảm bảo điều kiện an toàn và tiếp tục
sản xuất, các doanh nghiệp phải trả thêm những chi phí liên quan như chi
phí hỗ trợ lương nghỉ dịch; chi phí xét nghiệm; chi phí nhiên liệu; trợ
cấp tiền lương, bữa ăn và vật dụng sinh hoạt... Bên cạnh đó là gánh
nặng BHXH và chi phí công đoàn.
Đứt
gẫy nguồn cung lao động, đặc biệt là ở Quý III với sự bùng phát của làn
sóng dịch lần thứ tư. Lực lượng lao động tổn thương nghiêm trọng khi
tình trạng sống và làm việc “ba tại chỗ” kéo dài quá lâu.
Trong
thời gian thực hiện giãn cách, hàng trăm ngàn lao động phải nghỉ việc,
giãn việc, làm việc luân phiên, Tuy nhiên, những quy định chống dịch ở
các địa phương không thống nhất sau đó đã cản trở sự quay trở lại làm
việc của người lao động.