Ông
Đoàn Tử Tích Phước, đại diện Ví MoMo chia sẻ tại Tọa đàm Đối thoại
Chính sách “Hoàn thiện khung pháp luật về kinh tế và nâng cao hiệu quả
tổ chức thi hành pháp luật trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, do trường Đại học KTQD tổ chức ngày 29/9.
Ông Đoàn Tử Tích Phước.
Về
mặt pháp lý, ông Phước hy vọng Việt Nam sẽ có biện pháp thực hiện ngay
mà không chỉ đặt vấn đề nghiên cứu. Vì về phía doanh nghiệp, ông Phước
nhận thấy đây là câu chuyện rất thực tế và gắn với doanh nghiệp công
nghệ trong nước.
Một số vấn đề cần lý giải
Điều ông Phước băn khoăn là việc thực thi pháp luật trên không gian mạng rất rộng, và đang nổi lên một số vấn đề. Thứ nhất, liên quan đến khung pháp lý. Thứ hai, khi có khung pháp lý thì thực thi như thế nào cho đúng pháp luật trên không gian mạng. Thứ ba, nếu làm sai trên không gian mạng doanh nghiệp sẽ bị chế tài như thế nào.
Về
nguyên tắc chung, ông Phước nhận thấy có một số điều cần được lý giải
kỹ hơn. Đơn cử, đối với không gian mạng, doanh nghiệp đồng tình với quy
định ở đời thực như thế nào thì trên mạng cũng cần được áp dụng như vậy.
Nhưng
trong trường hợp giao dịch cụ thể như mua một gói bim bim giá 5.000
đồng thì có cần hợp đồng không? Hoặc có những giao dịch giữa những người
không biết chữ mà chỉ có thể điểm chỉ hay giấy viết tay nhưng được pháp
luật thừa nhận và bảo vệ thì như thế nào?
Như
vậy, đối với không gian mạng cũng cần đặt ra những quy định, phân nhóm
khác nhau cho các chế tài khác nhau. Nếu không phân loại được thì về mặt
kỹ thuật cũng sẽ không khả thi. Bởi khi có đến hàng triệu giao dịch xảy
ra trong cùng một thời điểm thì rất khó phân loại giao dịch nào là quan
trọng, giao dịch nào là trọng yếu để có biện pháp điều chỉnh, mà chúng
ta đòi hỏi hàng triệu giao dịch đó phải có chữ ký số hay đảm bảo các
tiêu chuẩn khác thì tất yếu sẽ dẫn đến nghẽn mạng.
Ngoài
ra, ở góc độ việc làm, người sử dụng internet thường có mong muốn mạng
chạy “trôi chảy”. Tuy nhiên, không phải lúc nào mạng cũng hoạt động như
mong muốn, vì đây là hệ thống gồm nhiều chủ thể khác nhau, như doanh
nghiệp, cơ quan nhà nước... được liên kết thống nhất.
Nhưng
khả năng lỗi, chậm sẽ có khả năng xảy ra thường xuyên. Do đó, ông Phước
hy vọng khi thực hiện luật giao dịch điện tử mới, tức là đáp ứng những
điều kiện nhất định được pháp luật công nhận thì được biết thế nào là
các điều kiện mà pháp luật đặt ra.
“Khi
luật thiết kế được những nhóm điều kiện khác nhau, như các giao dịch
10.000 đồng, 20.000 đồng, 100.000 đồng... thì lúc này chữ ký số có còn
cần thiết nữa hay không”, ông Phước băn khoăn.
Bản
thân doanh nghiệp đã va vấp với vấn đề này, đó là nếu doanh nghiệp cần
lập chữ ký số thì sẽ phải gửi lập trích xuất sang đơn vị cung cấp chữ ký
số thứ ba, sau đó lại trả về cho doanh nghiệp. Quy trình này thường bị
lỗi từ 10-15%, thậm chí nhiều hơn nếu lượng giao dịch tăng lên. “Đây là vấn đề doanh nghiêp mong muốn những nhà làm luật cần phải nghĩ đến”, ông Phước bày tỏ.
Vẫn
theo ông Phước, để khắc phục những hạn chế này thì nhà nước cũng cần
đầu tư vào hạ tầng, con người, thiết bị công nghệ. Vì lập một trang web
hay app cho 1.000 người dùng sẽ rất khác khi phục vụ hàng chục triệu
người.
Ví dụ, app covid thời gian
qua thường xuyên bị lỗi là do thiếu nguồn lực và mức đầu tư. Cho nên, để
thực thi hiệu qủa pháp luật online thì nhà nước cần đầu tư lớn hơn về
hạ tầng và con người với thời gian dài hơn.
Về
khung pháp luật, ông Phước đánh giá cao khi được tạo điều kiện trong
giao dịch online. Tuy nhiên, phía doanh nghiệp cũng đề xuất với Bộ Tư
pháp cần nghiên cứu sâu hơn về hệ thống văn bản dưới luật. Vì càng xuống
dưới thì “đụng” càng nhiều.
Đơn cử,
việc xử lý kỷ luật người lao động có thể làm bằng hình thức online được
hay không? Nếu làm bằng hình thức online kỷ luật hay sa thải người lao
động nhưng sau đó họ kiện doanh nghiệp ra tòa thì doanh nghiệp có chịu
nổi không?
“Đây là điều doanh
nghiệp chưa trả lời được vì Bộ Lao động và Thương binh Xã hội chưa có cơ
chế rõ ràng để doanh nghiệp làm việc đó”, ông Phước nói.
Hay
tổ chức đại hội cổ đông bằng hình thức online, các giấy mời hay biểu
quyết của cổ đông có thể bằng hình thức online được không? Tất cả những
thắc mắc này sau 10 năm lần sửa đổi gần nhất của Luật Doanh nghiệp cũng
chưa có câu trả lời cụ thể.
PGS.TS Trần Văn Nam.
Như
vậy, tất cả những vấn đề trên sẽ đưa đến rủi ro từ tài chính, uy tín
đến pháp lý mà doanh nghiệp không thể phán đoán trước được. Trong giai
đoạn COVID-19 này, những câu hỏi như vậy đặt ra ngày càng nhiều hơn và
cần sớm có lời giải cho doanh nghiệp.
Do
đó, ông Phước hy vọng những thắc mắc trên cần được nhanh chóng tháo gỡ
để các doanh nghiệp có thể thích ứng với đại dịch mà chưa biết bao giờ
mới kết thúc, cũng như thúc đẩy chuyển đổi kinh tế số, chuyển đổi số
theo chủ trương chung của Chính phủ.
PGS.TS
Trần Văn Nam, Trưởng khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đánh
giá, để phát triển kinh tế số thời gian tới, nhà nước cần xây dựng chiến
lược chuyển đổi số phù hợp. Đó là Nhà nước cần sớm ban hành chiến lược
và quy hoạch quốc gia về chuyển đổi số, kinh tế số với mục tiêu làm chủ
hạ tầng số, làm chủ các nền tảng số, làm chủ không gian mạng quốc gia,
hướng tới mục tiêu hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có
năng lực phát triển toàn cầu.
Tiếp
tục hoàn thiện hệ thống luật pháp theo yêu cầu hội nhập quốc tế và phát
triển kinh tế số, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, trong đó ban hành Luật
bảo vệ thông tin cá nhân cần được xem là một ưu tiên trong thời gian
tới.
Có quy định và cơ chế phù hợp
để điều chỉnh hoạt động của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tương
thích với nền kinh tế số, như xây dựng luật văn bản điện tử, chữ ký số,
cấp giấy phép từ cơ quan quản lý.
Nhà
nước cần mạnh dạn chấp nhận các mô hình kinh doanh mới và các công nghệ
mới bằng cách tiếp cận mới trong quản lý mà nhiều nước áp dụng, cách
tiếp cận Sandbox, cho cái mới tự phát triển, sau đó mới hình thành quy
định để quản lý.
Nhà nước cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp số hoạt động có hiệu quả. “Đồng
thời bản thân các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế cũng nên xây
dựng và thực hiện mục tiêu chiến lược chuyển đổi số phù hợp, dễ tiếp
cận, nhằm đáp ứng với các điều kiện thị trường liên tục thay đổi để tạo
ra lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị và sự hài lòng của khách hàng”, ông Nam nói.
Sẽ điều chỉnh nếu cần thiết
Còn
theo TS. Lưu Hương Ly, Vụ Pháp luật dân sự ‐ kinh tế Bộ Tư pháp, ở thời
điểm hiện tại, với mức độ phát triển hiện tại của công nghệ chuỗi khối
và hợp đồng thông minh, có thể tạm thời kết luận khung pháp luật hiện
hành của Việt Nam về hợp đồng và giao dịch điện tử đã khá đầy đủ để điều
chỉnh các hợp đồng thông minh mà không cần có sự sửa đổi, bổ sung hay
xáo trộn lớn, trừ việc sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Luật Giao
dịch điện tử năm 2005.
Toàn cảnh cuộc tọa đàm.
Cụ
thể, bảo đảm giá trị pháp lý của các giao dịch điện tử tự động nói
chung và hợp đồng thông minh nói riêng. Trong quá trình sửa đổi Luật
Giao dịch điện tử năm 2005, cần nghiên cứu bổ sung thêm quy định về sử
dụng hệ thống thông tin tự động trong giao dịch điện tử theo hướng hợp
đồng được giao kết hoặc thực hiện từ sự tương tác giữa một hệ thống
thông tin tự động với một người.
Hoặc
giữa các hệ thống thông tin tự động với nhau không bị phủ nhận giá trị
pháp lý chỉ vì không có sự kiểm tra hay can thiệp của con người vào từng
hành động cụ thể do các hệ thống thông tin tự động thực hiện, hay hợp
đồng được giao kết và bên sử dụng hệ thống thông tin tự động phải chịu
trách nhiệm về các hành vi do hệ thống thông tin tự động thực hiện.
Cân
nhắc bổ sung quy định về suy đoán về năng lực chủ thể của các bên tham
gia giao dịch điện tử trong Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi), để giảm
nhẹ trách nhiệm chứng minh của các bên về hiệu lực của giao dịch khi
phát sinh tranh chấp. Bên nào yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu do
không đáp ứng yêu cầu về năng lực chủ thể thì bên đó có trách nhiệm
chứng minh.
Luật Giao dịch điện tử
(sửa đổi) cần đưa ra định nghĩa rõ ràng, phân biệt các khái niệm “chữ ký
điện tử”, “chữ ký điện tử an toàn”, “chữ ký số”, trong đó cần quy định
rõ chữ ký số cũng chỉ là một loại chữ ký điện tử an toàn.
Đồng
thời, Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) cần quy định rõ các điều kiện,
tiêu chuẩn để chữ ký điện tử được coi là chữ ký điện tử an toàn. Cụ thể,
cần quy định rõ chữ ký điện tử an toàn là chữ ký số (đáp ứng các điều
kiện nhất định). Hoặc chữ ký do các bên thoả thuận và đáp ứng các điều
kiện nhất định.
TS. Lưu Hương Ly.
Về
điều kiện để một chữ ký điện tử được coi là an toàn và tin cậy, có thể
tham khảo quy định tại Luật mẫu của UNCITRAL về Chữ ký điện tử được
UNCITRAL thông qua ngày 5/7/2001, trong đó đề cao nguyên tắc trung lập
về công nghệ, công nhận giá trị của chữ ký điện tử không phụ thuộc vào
loại công nghệ được sử dụng trong giao dịch.
Luật
mẫu về Chữ ký điện tử tiếp cận trên cơ sở sử dụng công nghệ mã hóa mật
mã công cộng (có tổ chức công cộng chứng nhận và thực hiện việc mã hóa),
hay còn gọi là chữ ký số (digital signature). Mặc dù vậy, Luật mẫu cũng
đề cập đến việc sử dụng các công nghệ mới như sinh trắc học
(biometrics) - dùng các dấu hiệu của các bộ phận trong cơ thể con người
như dấu vân tay, ảnh mặt, ảnh mắt... để nhận ra một cá thể. Mã số xác
nhận cá nhân - số PIN (Personal Identification Number) và các công nghệ
tương tự.
Vẫn theo bà Ly, Luật Giao
dịch điện tử cũng cần đảm bảo giá trị pháp lý của chữ ký điện tử an toàn
theo hướng, chữ ký điện tử an toàn có giá trị chứng cứ (các bên không
phải chứng minh tính xác thực và tính toàn vẹn của chữ ký điện tử an
toàn), trừ trường hợp có chứng cứ chứng minh ngược lại.
Ngoài
ra, trong quá trình giải quyết tranh chấp vẫn có thể có cách hiểu hay
giải thích pháp luật khác nhau, khi đó Tòa án nhân dân tối cao cần ban
hành Nghị quyết hay án lệ để giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật
một cách thống nhất.
Chẳng hạn,
hướng dẫn về việc giải thích hợp đồng khi có sự mâu thuẫn giữa điều
khoản trong hợp đồng thông minh và điều khoản trong hợp đồng văn bản do
các bên ký kết. Hướng dẫn cách hiểu về pháp luật của nước có mối liên hệ
gắn bó nhất với hợp đồng thông minh..
“Tuy
nhiên, cần ghi nhớ rằng công nghệ hiện nay đang thay đổi với tốc độ rất
nhanh, Blockchain và hợp đồng thông minh cũng không phải là ngoại lệ.
Vì vậy, vấn đề này vẫn cần tiếp tục được theo dõi, nghiên cứu để điều
chỉnh pháp luật nếu cần thiết”, bà Ly cho biết.