Nhóm nghiên cứu dự báo, tăng
trưởng kinh tế Việt Nam có khả năng cao đạt được mục tiêu 6,5% trong năm
2022; tuy nhiên mục tiêu lạm phát dưới 4% của Chính phủ là khó có khả
năng đạt được.
Nhận định trên là của một số chuyên gia
kinh tế trong “Hội thảo Khoa học Quốc gia đánh giá kinh tế Việt Nam năm
2021 và triển vọng năm 2022”. Hội thảo do Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân (KTQD) phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương (KTTƯ) tổ chức sáng
(25/4/2022), tại Hà Nội.
Kinh tế Việt Nam năm 2022 đứng trước 3 thách thức
Tại Hội thảo, PGS.TS. Tô Trung Thành, Trưởng phòng Quản lý Khoa học
Trường Đại học KTQD, đồng chủ biên ấn phẩm "Đánh giá Kinh tế Việt Nam"
cho rằng, năm 2021 Việt Nam chứng kiến những khó khăn và thách thức chưa
có tiền lệ. Kinh tế thế giới phục hồi nhưng không đồng đều.
Ở Việt Nam, tăng trưởng kinh tế năm 2021 suy giảm mạnh ở mức 2,58%,
thấp nhất trong vòng hai thập niên gần đây, từ mức 2,91% của năm 2020 –
năm đầu tiên bị tác động của đại dịch.
“Nguyên nhân chủ yếu từ cú sốc suy thoái nặng nề trong quý III/2021 với
sự lan rộng của biến chủng Delta trong khi tỷ lệ tiêm chủng còn rất
thấp, đã gần như vô hiệu hoá các nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh và truy vết
của Chính phủ, vốn đã rất thành công trong năm 2020”, ông Thành nói.
Cũng tại Hội thảo, các chuyên gia kinh tế cho rằng, động lực tăng
trưởng kinh tế năm nay vẫn đến từ đầu tàu khu vực kinh tế đối ngoại,
đóng góp lớn đến sản xuất sản phẩm chế biến chế tạo và xuất khẩu.
Các chuyên gia dự báo, triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022 có thể đứng trước 3 thách thức lớn.
Thứ nhất,
đại dịch Covid-19 với chủng mới Delta có tốc độ lây nhiễm mạnh, bất ổn
chính trị thế giới leo thang cùng giá dầu tăng mạnh có thể khiến con
đường hồi phục toàn cầu và của các nước bạn hàng lớn của Việt Nam như
Mỹ, EU, Trung Quốc bị đe dọa; theo đó ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư
tại Việt Nam.
Thứ hai, việc chính phủ và NHTW của các
quốc gia lớn, đặc biệt là Mỹ, có động thái thắt chặt tiền tệ do lo ngại
lạm phát, là có tác động đến kinh tế, tài chính thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng. Đối với Việt Nam, dư địa các chính sách tài khóa và
tiền tệ để hỗ trợ hồi phục kinh tế sẽ bị thu hẹp hơn.
Thứ ba,
những rủi ro bất ổn vẫn còn hiện hữu như tăng trưởng “nóng” trên thị
trường bất động sản và chứng khoán. Cụ thể, dòng vốn tín dụng chưa đi
vào khu vực sản xuất và đổ vào thị trường tài sản gây rủi ro tài chính;
hệ thống ngân hàng còn nhiều chỉ tiêu chưa lành mạnh như chất lượng tín
dụng giảm và nợ xấu gia tăng; sức ép lạm phát gia tăng...
Những rủi ro này có thể tác động ngược trở lại đến khu vực kinh tế thực, ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng.
Tăng trưởng có thể đạt, song lạm phát khó giữ
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo nhóm nghiên cứu dự báo, có khả năng
cao đạt được mục tiêu 6,5% trong năm 2022. Tuy nhiên, mục tiêu lạm phát
dưới 4% của Chính phủ là khó có khả năng đạt được.
Nguyên nhân
chủ yếu đến từ xu hướng tăng giá hàng hóa cơ bản và giá xăng dầu cộng
thêm chiến tranh Nga – Ukraine leo thang, đã khiến giá năng lượng tăng
cao kỷ lục, theo đó ảnh hưởng lớn đến chi phí sản xuất trong nước, gây
sức ép lớn đến lạm phát năm 2022.
Cùng với đó, lạm phát toàn cầu đang gia tăng cũng ảnh hưởng đến áp lực
lạm phát trong nước. Không những thế, tỷ lệ cung tiền M2/GDP và tín
dụng/GDP của Việt Nam đang ở mức rất cao so với các nước trong khu vực,
trong khi tăng trưởng kinh tế đang dưới sâu so với mức sản lượng tiềm
năng, làm gia tăng rủi ro lạm phát.
Đồng thời, báo cáo cũng cho
thấy, diễn biến giá dầu tăng cao trong những tháng đầu năm 2022 đặt ra
thêm những thách thức rất lớn đến kinh tế. Tính đến ngày 11/3/2022,
trung bình giá xăng dầu tăng 45,2% so năm năm 2021, và nếu theo Dự thảo
giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu được thực hiện thì giá
xăng dầu tăng 41%.
PGS.TS. Tô Trung Thành đánh giá: “Nếu giá xăng
dầu tăng 45,2%, ảnh hưởng trực tiếp tức thời đến chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tăng 0,6%, chỉ số giá sản xuất (PPI) tăng khoảng 2,34%. Trong
trường hợp Dự thảo được thực hiện, giá xăng dầu tăng so với bình quân
năm 2021 khoảng 41%, ảnh hưởng trực tiếp đến giá tiêu dùng tăng 0,5%;
chỉ số giá sản xuất tăng 2,2%”.
Với tình hình dịch Covid-19 có
những diễn biến mới và được thúc đẩy bởi gói hỗ trợ phục hồi kinh tế
mới, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đạt được mục tiêu 6,5% như kỳ
vọng.
Tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp phục hồi và phát triển
Động lực tăng trưởng kinh tế theo báo cáo nhận định năm nay vẫn đến từ
đầu tàu khu vực kinh tế đối ngoại, đóng góp lớn đến sản xuất sản phẩm
chế biến chế tạo và xuất khẩu.
Cùng với đó, bù đắp cho đầu tư khu
vực tư nhân còn khó khăn, chưa thể hồi phục nhanh do tác động của đại
dịch, đầu tư công được tăng cường sẽ đóng góp lớn vào tăng trưởng của
năm 2022. Những chính sách đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm
được thực hiện giúp tăng các mức chi tiêu, đóng góp lớn vào quy mô nền
kinh tế.
Về phía sản xuất, ngành dịch vụ có cơ hội hồi phục mạnh
mẽ trong năm 2022 với sự mở cửa trở lại của nền kinh tế. Đây là ngành có
vai trò lớn trong đóng góp vào tăng trưởng trong những năm gần đây.
Chất lượng tăng trưởng năm 2022 cũng được dự báo ở mức cao hơn, thông
qua dự báo tăng trưởng TFP và năng suất lao động được cải thiện.
Báo cáo khuyến nghị, Chính phủ cần quán triệt 3 quan điểm cơ bản khi đưa
ra các chính sách. Đầu tiên, các chính sách cần tập trung hướng đến làm
thế nào để hồi phục và phát triển nền kinh tế một cách bền vững trong
bối cảnh “sống chung với Covid-19”.
Để đảm bảo cân bằng bên trong
của nền kinh tế thì sản lượng cần được duy trì gần mức tiềm năng; cần
thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ hướng về tổng cầu trong
ngắn hạn để đẩy nền kinh tế quay trở lại vị trí tiềm năng.
Song
song đó, trong khi dư địa chính sách dần thu hẹp, các chính sách cần
hướng nguồn lực ưu tiên đến khu vực doanh nghiệp, tạo điều kiện cho khu
vực doanh nghiệp phục hồi và phát triển trong đại dịch; đặc biệt là
những doanh nghiệp có ảnh hưởng lan tỏa lớn đến nền kinh tế.
Do đại dịch bùng phát và thực hiện giãn cách xã hội trên diện rộng
khiến thu nhập cũng như nhu cầu tiêu dùng giảm sút mạnh. Trong khi đó,
một động lực quan trọng cho hỗ trợ tăng trưởng là đầu tư công thì chưa
tạo được đột phá. Về phía cung, sản xuất của các ngành quan trọng bị ảnh
hưởng lớn như vận tải, kho bãi; du lịch lưu trú ăn uống; giáo dục đào
tạo; ngành công nghiệp chế biến chế tạo... do nhu cầu giảm mạnh và gia
tăng chi phí sản xuất. Những biện pháp phòng chống dịch bệnh cực đoan và
thiếu nhất quán giữa các địa phương cũng ảnh hưởng lớn lến chi phí vận
chuyển, logistics cũng như làm đứt gẫy chuỗi cung ứng cho các doanh
nhiệp...
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đã nới lỏng một số
quy định an toàn hệ thống để hỗ trợ hệ thống và nền kinh tế ứng phó với
đại dịch. Sau một thời gian dài có xu hưởng giảm thì nợ xấu đã tăng trở
lại. Những khó khăn của khu vực kinh tế thực cuối cùng có thể sẽ lây
nhiễm sang khu vực tài chính. Những rủi ro bất ổn và thiếu lành mạnh đã
xuất hiện trên các thị trường chứng khoán (thị trường cổ phiếu và thị
trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp) và thị trường
bất động sản.
Bùi Hằng
Link:
https://dautuvakinhdoanh.vn/doi-voi-kinh-te-kho-ghim-cuong-lam-phat-duoi-4-trong-nam-nay-a13287.html