Lý giải vì sao lạm
phát năm 2022 của kinh tế Việt Nam khó duy trì được mức tăng dưới 4%,
báo cáo dẫn các nguyên nhân trong đó đáng chú ý là xu hướng tăng giá
hàng hoá cơ bản và giá xăng dầu leo thang cũng như chiến tranh Nga –
Ukraine leo thang khiến giá năng lượng tăng cao ảnh hưởng đến chi phí
sản xuất trong nước, gây sức ép lớn lên lạm phát năm 2022.
Cũng theo Báo cáo, lạm phát toàn cầu đang gia tăng cũng gây ảnh hưởng đến áp lực lam phát trong nước.
“Tỷ
lệ cung tiền M2/GDP và tín dụng/GDP của Việt Nam đang ở mức rất cao so
với các nước trong khu vực trong khi tăng trưởng kinh tế đang ở mức dưới
sâu so với mức sản lượng tiềm năng, theo đó làm gia tăng rủi ro lạm
phát trung và dài hạn” - TS Tô Trung Thành, đồng chủ biên Báo cáo lưu ý.
Lạm
phát được nhóm chuyên gia của Báo cáo coi là một trong các thách thức
lớn của nền kinh tế trong năm 2022. Các thách thức khác được “điểm danh”
trong Báo cáo gồm diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, các nước
có xu hướng thắt chặt tiền tệ do lo ngại lạm phát sẽ có tác động đến
Việt Nam với việc dư địa chính sách tài khoá và tiền tệ để hỗ trợ hồi
phục kinh tế sẽ hẹp dần, những rủi ro tín dụng trên thị trường bất động
sản, chứng khoán…
|
Báo
cáo đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên năm 2021 dược công bố tại Hội
thảo khoa học quốc gia "Kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm
2022" |
Trong bối cảnh đó, Báo
cáo năm nay cho rằng nền kinh tế sẽ phải giải cùng lúc hai bài toán là
ổn định kinh tế vĩ mô và làm lành mạnh tài chính. Trong bối cảnh đó, các
chính sách tới đây cần dựa trên các quan điểm. Một là cần hướng đến
việc hồi phục và phát triển kinh tế một cách bền vững.
Hai là
để bảo đảm các cân bằng bên trong của nền kinh tế thì sản lượng cần duy
trì gần mức tiềm năng, cần thực hiện các chính sách tài khoá và tiền tệ
hướng về tổng cầu trong ngắn hạn để nền kinh tế quay trở lại mức tiềm
năng.
Ba là trong khi dư địa chính sách đang dần thu hẹp thì
các chính sách cần hướng nguồn lực ưu tiên đến khu vực doanh nghiệp, tạo
điều kiện cho khu vực doanh nghiệp phục hồi và phát triển, đặc biệt là
những doanh nghiệp có ảnh hưởng lan toả lớn đến nền kinh tế.
“Chính
sách tài khoá phải được coi là chính sách hỗ trợ quan trọng nhất. Cùng
đó khi dư địa chính sách tiền tệ bị thu hẹp mạnh, các công cụ lãi suất
nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung ít có tác dụng trong khi lại
dẫn đến rủi ro lạm phát và bất ổn vĩ mô. Chính sách lãi suất nên tập
trung vào việc cắt giảm lãi suất cho vay hơn là lãi suất huy động”- Báo cáo nêu quan điểm.
Một
nội dung được Báo cáo này quan tâm là kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng
nóng ở các thị trường tài sản, đặc biệt là thị trường bất động sản. Theo
GS TS Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế quốc dân,
đồng chủ biên Báo cáo, hiện tượng giá bất động sản tăng gấp 2-3 lần chỉ
trong một thời gian rất ngắn như vừa qua là điều chưa từng xảy ra.
Một
hiện tượng bất thường khác là trái phiếu doanh nghiệp năm 2021 tập
trung rất cao cho trái phiếu doanh nghiệp bất động sản, chiếm tỷ trọng
gần 40% và có mức tăng đến 64 % so với năm 2020. Hơn 80% giá trị trái
phiếu doanh nghiệp của ngành bất động sản phát hành thuộc về các doanh
nghiệp chưa niêm yết.
Trong bối cảnh đó, Báo cáo đề xuất việc
cần xem xét trái phiếu bất động sản như một khoản nợ bất động sản dưới
chuẩn, áp dụng trích lập dự phòng rủi ro với mọi định chế (gồm cả công
ty chứng khoán, các quỹ…) nắm giữ loại giấy tờ có giá này.
“Cần
nghiên cứu để xây dựng các cơ chế chính sách pháp luật không chỉ nhằm
bình ổn thị trường bất động sản mà xa hơn là tạo cho thị trường này có
khả năng xuất khẩu tại chỗ, đem lại nguồn ngoại tệ không nhỏ cho đất
nước”- ông Chương nói.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện thể
chế với việc định giá, tư vấn, phát hành, mua bán trái phiếu doanh
nghiệp theo hướng loại bỏ mọi mọi xung đột lợi ích trên thị trường. Đồng
thời, có các giải pháp đồng bộ để giảm đầu cơ trên thị trường bất động
sản, loại bỏ xung đột lợi ích cơ bản trên thị trường bất động sản, tính
tới nhanh chóng áp dụng Luật Tài sản.
Một
phát hiện đáng chú ý nêu trong Báo cáo năm nay là nợ công của Việt Nam
là cơ bản bền vững trước các cú sốc vĩ mô lớn trong giai đoạn sau đại
dịch Covid-19 và có tính tới rủi ro địa chính trị gia tăng làm tăng giá
chi phí sản xuất, tăng giá đầu vào sản xuất, tiêu dùng suy giảm. Báo cáo
này cho rằng có thể đẩy chỉ số nợ công lên mức đỉnh là nợ công/GDP là
67%GDP, tuy nhiên mức này cũng vẫn còn thấp hơn mức khuyến cáo của Quỹ
Tiền tệ quốc tế là 70%.