(CLO) Kinh tế Việt Nam đang đối diện với nhiều rủi ro bất ổn vĩ mô và
bất ổn tài chính, khiến quá trình hồi phục kinh tế trở nên khó khăn.
Nền kinh tế đang có dấu hiệu bước vào chu kỳ đi xuống
Đây
là nhận định mà nhóm chuyên gia nghiên cứu của Trường Đại học Kinh tế
quốc dân (NEU) đưa ra trong ấn phẩm “Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường
niên : Ổn định kinh tế vĩ mô và lành mạnh tài chính trong bối cảnh đại
dịch COVID-“ của NEU.
Quá trình phuc hồi kinh tế đang có những dấu hiệu khó khăn. Ảnh minh họa.
Ấn
phẩm này sẽ được công bố cùng với Hội thảo Khoa học Quốc gia để đánh
giá kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022 tổ chức vào thứ
Hai, ngày 25/4 tới.
Chia sẻ với Nhà
báo và Công luận về một số điểm nhấn của ấn phẩm và hội thảo này , PGS.
TS Tô Trung Thành - Trưởng phòng Quản lý Khoa học của NEU, đồng chủ biên
ấn phẩm này cho rằng: “Sau suốt cả năm 2021 với những khó khăn chưa
từng có, đến nay sản xuất kinh doanh đã phục hồi nhanh chóng. Nhưng tăng
trưởng chưa lấy lại được tốc độ”.
Tổng
sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2022 ước tính tăng 5,03% so với
cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 4,72% của quý I năm 2021 và 3,66%
của quý I năm 2020 nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,85% của quý I năm
2019.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu của
NEU nhận thấy, nền kinh tế đang có dấu hiệu bước vào thời kỳ tăng
trưởng đi xuống và từ năm 2021, rủi ro bất ổn vĩ mô và bất ổn tài chính
đang gia tăng, PGS.Tô Trung Thành cho hay.
Kết
quả ước tính giá trị sản lượng tiềm năng cho thấy mức tăng trưởng tiềm
năng đối với nền kinh tế Việt Nam nằm trong khoảng 6,12%-6,32%/ năm. Như
vậy, trong 2 năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đang hoạt động dưới mức
sản lượng tiềm năng rất xa, đồng nghĩa với việc nền kinh tế đang có dấu
hiệu bước vào chu kỳ đi xuống.
Mặc dù
tăng trưởng vẫn chưa rơi vào ngưỡng cảnh báo khủng hoảng nhưng đây rõ
ràng là một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng trả nợ của nền kinh
tế cũng như tác động xấu đến các doanh nghiệp (những người đi vay), theo
đó, gia tăng rủi ro tín dụng.
Trong
khi đó, Việt Nam vẫn là nước có tốc độ tăng trưởng cung tiền M2 trong
những năm gần đây là 12-13%, tỉ lệ M2/GDP lên đến 180%, tỷ lệ tín
dụng/GDP là 150%, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Khi
tăng trưởng kinh tế dưới mức tiềm năng, các nguồn lực không được sử
dụng hiệu quả trong khi cung tiền và tín dụng ở mức rất cao (tính theo
tỷ lệ trên GDP), đây sẽ là yếu tố gây áp lực lớn đến lạm phát và rủi ro
vĩ mô trong trung và dài hạn.
Lạm phát đang chịu nhiều sức ép tăng. Và lạm phát kỳ vọng gia tăng do yếu tố chi phí đẩy và chính sách nới lỏng tiền tệ kéo dài.
Đồng
thời, những rủi ro bất ổn và thiếu lành mạnh đã xuất hiện trên các thị
trường chứng khoán (thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu, đặc
biệt là trái phiếu doanh nghiệp) và thị trường bất động sản.
Dư
địa chính sách tài khóa thì hạn hẹp hơn, thu ngân sách có thể khó khăn
khi kinh tế suy giảm và thị trường tài sản điều chỉnh mạnh, trong khi
chi ngân sách cho các gói kích thích kinh tế gia tăng.
Và còn những khó khăn của khu vực kinh tế thực cuối cùng có thể sẽ lây nhiễm sang khu vực tài chính.
Tiền dư thừa đổ vào đầu cơ chứng khoán BĐS
Một
điểm nữa trong ấn phẩm này khiến người đọc chú ý, đó là lượng vốn đổ
vào kinh doanh chứng khoán và BĐS lớn nhất từ trước tới nay cả về quy mô
và tỷ trọng.
Theo quan sát của nhóm
nghiên cứu, những doanh nghiệp phi tài chính niêm yết là những doanh
nghiệp khoẻ nhất của nền kinh tế, về cơ bản không chịu tác động quá tiêu
cực từ đại dịch, tỷ suất sinh lời tăng trở lại. Những doanh nghiệp này
với lợi thế về tiếp cận vốn, đã đổ vốn vào chứng khoán và BĐS. Nhưng
việc đổ vốn này mang tính đầu cơ.
Rõ
nhất là trên thị trường BĐS dòng vốn đổ vào có xu hướng gia tăng vào các
phân khúc đầu cơ như đất nền vùng ven các thành phố lớn.
Và khi thị trường BĐS phát triển nóng ở phân khúc đầu cơ sẽ dẫn đến 4 vấn đề:
Thứ
nhất kích thích người dân, doanh nghiệp dùng đòn bẩy để đầu cơ, rủi ro
nợ xấu với NHTM sẽ gia tăng khi thị trường có biến động;
Thứ
hai, vì đầu cơ, nên một lượng lớn đất không được khai thác, gây lãng
phí tài, không tạo được nguồn thu bền vững cho ngân sách;
Thứ ba, khi đất đai bị mua đi bán lại với mục đích đầu cơ, các khoản thu một lần từ đất trả cho nhà nước cũng rất thấp;
Thứ
tư, một lượng lớn vốn của nền kinh tế không chảy vào sản xuất, nghiên
cứu, phát triển hay tiêu dùng, mà đổ vào đất đai đầu cơ.
Một điểm cần chú ý nữa là dòng vốn đổ vào BĐS còn được hỗ trợ từ trái phiếu doanh nghiệp.
Năm
2021, BĐS là ngành phát hành nhiều TPDN nhất, chiếm tỷ trọng khoảng 40%
lượng TPDN phát hành, tăng 64% so với năm 2020. Trong đó khoảng 29% giá
trị trái phiếu phát hành không có tài sản bảo đảm hoặc bảo đảm bằng cổ
phiếu.
Và trái phiếu doanh nghiệp BĐS đang có rủi ro lớn nhất trên thị trường vốn.
Hơn
80% giá trị TPDN của ngành BĐS phát hành thuộc về các doanh nghiệp chưa
niêm yết, có sức khỏe tài chính ở mức yếu đáng báo động. Khả năng tiếp
cận thông tin tài chính, tính minh bạch của các DN phát hành rất hạn
chế, làm gia tăng rủi ro về phía nhà đầu tư, nguy cơ gia tăng nợ xấu.
Tóm
lại, nhóm nghiên cứu của NEU cho rằng: kinh tế Việt Nam đang đối diện
với nhiều rủi ro bất ổn vĩ mô và bất ổn tài chính, khiến cho quá trình
ứng phó với đại dịch và hồi phục kinh tế trở nên khó khăn.
PGS.Tô
Trung Thành cho biết, trong báo cáo sẽ công bố và hội thảo hôm tới sẽ
đánh giá tổng quan kinh tế cũng như nhận diện các rủi ro bất ổn. Đây là
cơ sở quan trọng để đưa ra được các khuyến nghị chính sách nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô và lành mạnh tài chính, đưa nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ.
Hà Nguyễn
Link: https://congluan.vn/kho-khan-cua-khu-vuc-kinh-te-thuc-co-the-lay-nhiem-sang-khu-vuc-tai-chinh-post191085.html