Covid-19 khiến cho hoạt động của
nhiều ngân hàng trở nên khó khăn, nợ xấu toàn hệ thống tăng mạnh, các
ngân hàng phải hi sinh lợi nhuận, cắt giảm chi phí, lương thưởng và sẻ
chia hàng chục nghìn tỷ đồng lợi nhuận để hỗ trợ doanh nghiệp và người
dân vượt qua đại dịch và thiên tai. Bên cạnh những khó khăn thì ngành
ngân hàng cũng vẫn ghi đậm những dấu ấn khá lạc quan, chẳng hạn lãi suất
giảm sâu nhất trong khu vực, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối cao kỷ
lục, ngân hàng ồ ạt lên sàn, giá cổ phiếu bùng nổ, hoạt động chuyển đổi
số diễn ra rầm rộ, lợi nhuận của một số ngân hàng vẫn tăng vọt bất chấp
khó khăn...
Nhân dịp đầu năm mới, chúng tôi có cuộc phỏng vấn với
chuyên gia tài chính, TS. Đỗ Hoài Linh, Giảng viên Viện Ngân hàng Tài
chính (ĐH Kinh tế Quốc dân) về những dự cảm với ngành ngân hàng 2021.
PV: Bà đánh giá thế nào về hoạt động chung của ngành ngân hàng năm 2020?
PGS.TS. Đỗ Hoài Linh:
Đại dịch Covid-19 đã phá bỏ mọi dự báo về tăng trưởng kinh tế trên khắp
toàn cầu. Không chỉ với hệ thống ngân hàng mà với nền kinh tế Việt Nam
trong năm 2020 phải đối mặt với rất nhiều bất định.
Thứ nhất là
về cầu tín dụng, 98% các doanh nghiệp của chúng ta có quy mô vừa và nhỏ,
với việc phát triển của doanh nghiệp này phụ thuộc nhiều vào nguồn tín
dụng ngân hàng do khó có thể huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu hay
trái phiếu. Do đó, mặc dù hệ thống ngân hàng đã rất tích cục thực hiện
chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước triển khai các chương trình
tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19
với lãi suất cho vay giảm mạnh từ 0,5-2,5%, thậm chí có ngân hàng thương
mại còn giảm lãi suất cho vay tới 3-4%/năm, cùng với đó thủ tục vay vốn
được đơn giản hóa, cải cách hành chính, đẩy mạnh các giải pháp nhằm
tăng cường khả năng tiếp cận vốn cho người dân, doanh nghiệp thì mức
tăng trưởng tín dụng với mức tăng trưởng tín dụng năm 2020 đạt mức hơn
10%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 14%.
11 tháng đầu năm 2020, cả
nước có 125 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 2,7% so với cùng kỳ
năm 2019, có hơn 85 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng hơn
50% với cùng kỳ năm 2019. Số lượng doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh
doanh tăng cao so với cùng kỳ năm 2019 tiếp tục cho thấy nhu cầu hấp thụ
tín dụng sẽ còn yếu và sụt giảm. Tuy nhiên, bên cạnh mảng màu ảm đạm
của tăng trưởng tín dụng thì điểm sáng đó là dòng chảy tín dụng vẫn đang
đổ vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên như xuất
khẩu, ứng công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ.
Thứ hai, hoạt động
thanh toán ngân hàng nhận được nhiều cơ hội từ ảnh hưởng của Covid-19
trong việc thay đổi nhận thức, thói quen và hành vi thanh toán không
dùng tiền mặt của khách hàng, kết hợp với nhiều sản phẩm mới với nhiều
tiện ích và hiện đại được áp dụng. Theo số liệu từ Vụ Thanh Toán (NHNN)
trong 5 năm qua, tổng số lượng thanh toán qua kênh Internet tăng 262,5%,
giá trị thanh toán tăng 353%; thanh toán di động tăng 1.000% về số
lượng nhưng tăng tới 3.000% về giá trị. Bên cạnh đó, hoạt động ngân hàng
đang trong hành trình chuyển đổi để có thể cung cấp trải nghiệm số hóa
toàn diện, trở thành một sàn giao dịch với đa dạng các dịch vụ và sản
phẩm, cung cấp giải pháp kinh doanh chứ không chỉ đơn thuần là dịch vụ
ngân hàng. 88% các tổ chức tín dụng lựa chọn triển khai số hóa dần các
kênh giao tiếp khách hàng và nghiệp vụ nội bộ, 19% tổ chức tín dụng đã
hoặc có kế hoạch thiết lập thương hiệu hoặc kênh ngân hàng số mới.
Thứ
ba, mặc dù Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2020 có đặt ra mục tiêu đưa tỷ
lệ nợ xấu nội bảng xuống dưới 2%; tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD, nợ
xấu đã bán cho VAMC và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống
dưới 3%, và theo số liệu mới nhất từ NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ
thống TCTD được kiểm soát ở mức dưới 3%. Tuy nhiên, con số này chỉ phản
ánh phần nào tình hình thực tế, bởi theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN, các
NHTM được phép cơ cấu lại nợ, giãn thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ
của khách hàng, do đó, nợ xấu thực tế cao hơn con số báo cáo. Ngoài ra,
theo Báo cáo tài chính của nhiều NHTM công bố cho thấy tỷ lệ nợ xấu
những tháng cuối năm tăng đáng kể so với trước đó. Đã có 14 NHTM niêm
yết công bố kết quả kinh doanh quý III với tỉ lệ nợ xấu tăng trung bình
30% so với quý II/2020. Điều này cũng khá dễ hiểu vì khi doanh nghiệp,
người dân gặp khó khăn, nguồn thu giảm, khả năng trả nợ sẽ gặp nhiều khó
khăn, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ xấu tăng.
Thứ
tư, mảng màu cuối cùng trong bức tranh ngành ngân hàng phải kể đến đó
là lợi nhuận. Báo cáo của công ty chứng khoán SSI cho thấy lợi nhuận
trước thuế cho các ngân hàng nghiên cứu cho năm 2020 đạt 110.700 tỷ
đồng, tăng 3% so với cùng kỳ. Cụ thể, ước tính lợi nhuận trước thuế của
các ngân hàng thương mại Nhà nước giảm 6% trong năm 2020, các ngân hàng
thương mại cổ phần sẽ tăng 9% trong năm 2020. Tuy nhiên, dưới các chính
sách hỗ trợ hiện tại của Chính Phủ và Ngân hàng Nhà nước, con số lợi
nhuận công bố có thể cao hơn nhiều so với thực tế, đặc biệt khi Thông tư
01/2020/TT-NHNN, các NHTM được phép cơ cấu lại nợ, giãn thời hạn trả
nợ, giữ nguyên nhóm nợ của khách hàng, do đó, chi phí trích lập dự phòng
rủi ro tín dụng hiện tại có thể vẫn chưa được tính đúng và đủ, từ đó
giúp thổi phồng lợi nhuận báo cáo của ngân hàng so với thực tế.
Tăng trưởng tín dụng đến 21/12 đã đạt 10,14%, theo bà cả năm sẽ đạt bao nhiêu?
Trước
nhu cầu vay vốn suy yếu, ngân hàng dù muốn đẩy mạnh cho vay ra, thậm
chí giảm mạnh lãi suất, cải thiện các thủ tục hành chính để hỗ trợ hay
kích thích, thì tín dụng muốn duy trì tốc độ tăng trưởng cao như mục
tiêu trước đây là vô cùng thách thức.
Hiện tại tổng vay tiêu dùng trên
dư nợ của Việt Nam vào khoảng 11-12% tổng dư nợ. Khi tổng chi tiêu của
người dân sụt giảm, nhu cầu vay tiêu dùng cũng sẽ giảm tương ứng. Nên
trước sự suy giảm chi tiêu của hộ gia đình được ghi nhận ở mức đáng kể
là 15%, mục tiêu đạt mốc 1 triệu tỷ đồng cho vay tiêu dùng trong năm
2020, rồi tiến tới mục tiêu xa hơn là nâng tỷ trọng vay tiêu dùng trên
dư nợ lên mức 40-50% tổng dư nợ để đạt mức tỷ trọng của các nước phát
triển là điều không khả thi.
Ngoài ra, trước ảnh hưởng của bệnh
dịch Covid-19, các lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nhất gồm: i) chi phí y
tế trong phòng-chống dịch; ii) du lịch, lữ hành, khách sạn; iii) giao
thông vận tải; iv) thương mại; (v) đầu tư; (vi) các ngành sản xuất theo
chuỗi; và (vi) dịch vụ tài chính. Cùng với đó, dịch bệnh này khiến GDP
toàn cầu giảm, do đó mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2020 ở mức 14%
chắc chắn là không thể đạt được. Tôi dự đoán tăng trưởng vào khoảng 11%.
Còn nợ xấu sẽ thế nào?
Như
đã phân tích ở trên, năm 2020 là năm với nhiều bất ngờ bởi tác động của
đại dịch Covid-19, ngoài sự khó khăn của nội bộ thì nền kinh tế chúng
ta ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế, đến thời điểm này rất nhiều quốc
gia vẫn ghi nhận gia tăng ca nhiễm Covid mới và đang phân vân giữa lựa
chọn mở cửa lại nền kinh tế hay tiếp tục thắt chặt để đối phó với đại
dịch nên các doanh nghiệp gặp khó, không có khả năng trả nợ, do vậy,
theo nhận định của cá nhân tôi, hoàn thành mục tiêu nợ xấu dưới 2% trong
năm 2020 là không khả thi.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước không
nên nới trần tỷ lệ nợ xấu cho các tổ chức tín dụng vì đây là chỉ tiêu để
giúp đánh giá hiện trạng nợ xấu các ngân hàng, đồng thời cũng là mục
tiêu để các ngân hàng tuân thủ quy trình tín dụng, hướng dòng tín dụng
không được chảy vào những lĩnh vực không ưu tiên như bất động sản hay
chứng khoán.
Bà dự báo như ra sao về "bức tranh" ngành ngân hàng năm 2021?
Nằm
trong bối cảnh chung của toàn bộ nền kinh tế, năm 2021 với ngành ngân
hàng sẽ có nhiều gam màu lạc quan nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều bất
định khi dịch Covid-19 vẫn chưa được kiểm soát, các áp lực từ các cuộc
căng thẳng thương mại trên thế giới vẫn chưa có hồi kết rõ ràng do những
biến động mới về chính trị.
Tuy nhiên, có thể nhận định nguy cơ
nợ xấu tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hệ thống ngân hàng năm 2021 tiếp tục
gia tăng, nhưng nguồn gốc của các khoản nợ tiềm ẩn này đến lĩnh vực sản
xuất kinh doanh nên sẽ dễ dàng phục hồi hơn nếu nợ xấu đến từ những lĩnh
vực tạo bong bóng. Lợi nhuận của các ngân hàng trên sổ sách tiếp tục
tăng trưởng, nhưng lợi nhuận thực tế có thể suy giảm mạnh mẽ nếu rủi ro
tín dụng không được kiểm soát chặt chẽ.
Độ trễ trong tác động
của bất lợi của Covid-19 làm cho nhu cầu tín dụng của nền kinh tế năm
2021 khó cải thiện tức thời. Từ đó, tăng trưởng tín dụng năm 2021 sẽ chỉ
đạt bằng con số thực tế năm 2020 hoặc cao hơn 2%. Thanh khoản toàn thị
trường dồi dào; lãi suất tiếp tục duy trì mức thấp và còn có xu hướng
giảm tiếp sang năm 2021. Trước tình hình đó, nếu dòng vốn ngân hàng nếu
không được kiểm soát chặt chẽ sẽ dễ đổ vào bất động sản và chứng khoán,
điều này tiềm ẩn rủi ro với không chỉ hệ thống ngân hàng mà còn toàn bộ
nền kinh tế nếu xảy ra bong bóng với hai thị trường này.
Ngoài
ra, tiến trình số hóa ngân hàng sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn ngay cả khi dịch
Covid-19 được khống chế vì hiện tại 95% ngân hàng đã có, đang xây dựng
hoặc dự tính sẽ xây dựng chiến lược chuyển đổi số với kỳ vọng giúp tăng
10% doanh thu và 50% số lượng khách hàng trong 3-5 năm tới.
Xin cảm ơn những chia sẻ của bà!
Ngọc Toàn (thực hiện)
Theo Doanh nghiệp và Tiếp thị