Nền
kinh tế nào cũng đều là một thực thể đa dạng với nhiều chủ thể và có
thể được chia thành 2 khu vực: chính thức và phi chính thức. Một cách cô
đọng, khu vực chính thức bao gồm các chủ thể hoạt động bắt buộc phải
đăng ký kinh doanh, thực hiện các nghĩa vụ kê khai thuế, chế độ phúc lợi
xã hội cho người lao động. Trong khi đó, khu vực phi chính thức không
bắt buộc phải như vậy. Về lý do tồn tại của khu vực kinh tế thì ở mỗi
nước có khác nhau, nhưng đều có đặc điểm chung cơ bản là do khu vực kinh
tế chính thức không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời nhu cầu việc làm và
thu nhập của người dân, buộc họ phải tự tìm kế sinh nhai bằng cách tham
gia các hoạt động kinh doanh buôn bán nhỏ, do luật lệ không rõ ràng và
thiếu nhất quán, thủ tục hành chính phức tạp làm người dân và doanh
nghiệp tốn kém thời gian, chi phí, do ý thức tìm cách lách luật khi trốn
thuế, gian lận,...
Khu vực này có quy mô thế nào trong các nền kinh tế?
Do
khái niệm và phạm vi khu vực phi chính thức ở các nước là không giống
nhau, đặc biệt là sự phân biệt phạm vi khu vực này với khu vực kinh tế
chưa được quan sát là không rõ ràng nên số liệu ở ngay phạm vi một nước
cũng khó đo lường đầy đủ và chính xác. Nhiều nghiên cứu cho đến nay đều
cho thấy tầm quan trọng của khu vực này đối với tăng trưởng kinh tế, tạo
ra việc làm, thu nhập cho lực lượng lao động không có chuyên môn, lao
động tự do, thời vụ... Theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế, năm
2020 có hơn 2 tỷ lao động kiếm sống trong khu vực kinh tế phi chính
thức, chiếm tới 62% tổng số lao động trên toàn thế giới. Trong đó, số
lao động phi chính thức chiếm 90% tổng số việc làm ở các nước thu nhập
thấp, 67% ở các nước có thu nhập trung bình và 18% ở các nước thu nhập
cao. Về số doanh nghiệp thì cứ tính trung bình cứ 10 doanh nghiệp thì có
8 doanh nghiệp phi chính thức.
Những đặc điểm cơ bản của khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam là gì?
Giống
như ở nhiều nền kinh tế mới nổi, khu vực phi chính thức ở nước ta đóng
một vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày, xuất hiện trong mọi
lĩnh vực. Một số nghiên cứu cho thấy trong những năm qua, khu vực kinh
tế phi chính thức ở Việt Nam tạo ra khoảng 30% GDP. Các cuộc điều tra
cho thấy người lao động phi chính thức thường có thu nhập thấp, giờ làm
việc dài, làm việc đơn lẻ hoặc theo nhóm nhỏ, đa số có trình độ thấp,
thiếu chuyên môn kỹ thuật. Công việc khá bấp bênh, không ổn định, không
có hợp đồng lao động hoặc hợp đồng thỏa thuận miệng, không đóng bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, không chi trả các chế độ phụ cấp và các khoản
phúc lợi xã hội khác cho người lao động,… Trong khi là một nguồn quan
trọng tạo việc làm và cơ hội thu nhập, doanh nghiệp trong khu vực này
phải đối mặt với sự cạnh tranh không bình đẳng từ khu vực chính thức
trong việc tiếp cận các nguồn lực, do vậy năng lực yếu và dễ bị tổn
thương hơn trước các tác động bên ngoài.
Đại dịch Covid-19 đã tác động thế nào đến khu vực kinh tế phi chính thức ở các nước, thưa ông?
Mặc
dù đại dịch đã và đang tác động đến toàn bộ nền kinh tế và xã hội của
tất cả các nước nhưng mức độ là không đồng đều giữa các khu vực, các
ngành kinh tế. Khi đại dịch bắt đầu, giãn cách xã hội được áp dụng để
giảm thiểu lan truyền dịch bệnh đã làm ngưng trệ mọi hoạt động sinh hoạt
và sản xuất kinh doanh ở hầu khắp các nước. Thực tế cho thấy lao động
trong khu vực không chính thức đã bị ảnh hưởng trước tiên và lâu dài
hơn, điều đó làm trầm trọng thêm những thiệt thòi của người lao động
nghèo trong khu vực kinh tế phi chính thức. Người lao động trong khu vực
này cần có thu nhập "thường xuyên" để nuôi sống bản thân và gia đình,
vì đa số họ không có thu nhập thay thế hoặc tiết kiệm. Không có việc làm
có nghĩa là mất sinh kế, là không còn nguồn thu nhập nữa.
Trong
đại dịch, phần lớn người lao động khu vực phi chính thức có nguy cơ gặp
rủi ro về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, do môi trường làm việc thường
không đủ đảm bảo an toàn và vệ sinh phòng dịch. Khi mắc bệnh, người lao
động khu vực phi chính thức, lao động di cư không được đảm bảo tiếp cận
dịch vụ chăm sóc y tế và bảo hiểm và với chi phí tự bỏ ra, nhiều người
phải bán tài sản hoặc lâm vào cảnh nợ nần và trở thành nghèo hơn. Số
liệu từ COVAX về tiêm chủng vắc-xin giữa các nước cho thấy có sự bất
bình đẳng trong tiến độ tiêm chủng giữa các nước giầu và nghèo, giữa các
nhóm thu nhập và địa vị cao với các nhóm thu nhập và địa vị thấp trong
một nước. Thực tế đã cho thấy khi gặp cú sốc bất lợi, khu vực phi chính
thức bao giờ cũng bị ảnh hưởng nhiều hơn trong khi nhận được hỗ trợ ít
hơn.
Thế còn tác động của Covid-19 đối với khu vực này ở nước ta, thưa ông?
Ở
nước ta, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong năm 2020 tỷ lệ lao
động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản ước
tính là 56,2%, khu vực thành thị là 48,3% và khu vực nông thôn là 62,6%.
Hai năm qua, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nhiều đợt mới bùng phát
với chủng mới lây nhanh, lan rộng tại một số địa phương, thành phố lớn,
trong các khu công nghiệp, nơi tập trung nhiều doanh nghiệp và lao động
nhập cư. Để phòng, chống dịch, dãn cách xã hội ở những quy mô khác nhau
đã phải thực hiện. Thị trường lao động tổng thể chịu tác động rất lớn
khi hàng triệu lao động bị ngừng, hoãn, giãn việc, và cũng tương tự như
nhiều nước, lao động khu vực không chính thức đã bị ảnh hưởng nặng nề và
trước tiên do tác động của dịch bệnh. Trong khi nhiều doanh nghiệp,
trong đó có doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã có lúc
phải dừng hoạt động, nhưng vẫn có các chiến lược ứng phó giảm thiểu tác
động như giải pháp "ba tại chỗ", "một cung đường, hai điểm đển’’,… lao
động trong khu vực phi chính thức hầu như không có giải pháp nào thay
thế, thu nhập không chỉ giảm sâu và mất hẳn. Rõ ràng, cũng giống như
thực tế chung ở các nước khác, khu vực phi chính thức đã và đang chịu
tác động nhanh hơn, nặng hơn và lâu dài hơn so với khu vực chính thức.
Vậy chúng ta đã có những giải pháp gì cụ thể hỗ trợ khu vực này trong các gói cứu trợ vừa qua?
Trước
hết, cần khẳng định các gói cứu trợ và hỗ trợ về ý tưởng là rất kịp
thời, gói hỗ trợ an sinh xã hội lần 1 và 2 được thiết kế và ban hành khá
sớm để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch. Điểm
khá "đặc biệt" của gói hỗ trợ được coi là "chưa có tiền lệ" này là hỗ
trợ cho cả người lao động tự do, không có hợp đồng lao động, thể hiện rõ
tinh thần "không để ai bị bỏ lại phía sau". Các nguyên tắc hỗ trợ được
xác định là bảo đảm đúng đối tượng, hỗ trợ đủ và nhanh nhất, công khai,
minh bạch. Như vậy, từ ý tưởng đến thiết kế và ban hành chính sách được
cho là đúng và trúng, song quá trình triển khai thực hiện gần 2 năm qua
cho thấy còn nhiều bất cập, chưa thực sự hiệu lực và hiệu quả đối với
các đối tượng thuộc khu vực phi chính thức.