Theo GS-TS Trần Thọ Đạt, nguyên Hiệu
trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân, "chuyển đổi số" là một trong
những từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất trên Google và là khái niệm được
nhắc đến rất nhiều trong đời sống, nhưng kết quả triển khai thực hiện
chưa đáng kể và chưa rõ hiệu quả.
Trong nền kinh tế, những ngành có nhiều thuận lợi và có mức độ chuyển
đổi số cao là tài chính ngân hàng, công nghệ thông tin và truyền thông.
Riêng khu vực sản xuất, chuyển đổi số chậm và khó khăn hơn, cho thấy dư địa còn rất lớn. Thế lưỡng nan của doanh nghiệp
khi bắt đầu thực hiện chuyển đổi số là phải lựa chọn phương án mua công
nghệ mới hoàn toàn hay là cải tạo công nghệ cũ, điều này phụ thuộc rất
nhiều về nguồn tài chính và nhân lực của doanh nghiệp, và của cả ngành
kinh tế.
“Để chuyển đổi số thành công phải có tầm nhìn xa nhưng bước đi nhỏ.
Tầm nhìn xa là phải có chiến lược phát triển, có bộ chỉ số thể hiện mức
độ trưởng thành số trong từng ngành. Bước đi nhỏ là để có phải làm lại
thì chi phí cũng không lớn”, GS Trần Thọ Đạt nói.
Số liệu từ khảo sát mới đây của Phòng Thương mại và công nghiệp
Việt Nam về chuyển đổi số cho thấy 60% doanh nghiệp phản ánh vẫn gặp
rào cản trong chi phí đầu tư, ứng dụng công nghệ; 52,3% doanh nghiệp
phản ánh thiếu nhân lực nội bộ để ứng dụng công nghệ số, thay đổi thói
quen của doanh nghiệp và người lao động. Dẫn lại điều này, TS Trương Văn
Phước, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng khẳng định còn rất
nhiều vấn đề cần giải quyết để quá trình chuyển đổi số đi vào thực chất
và có hiệu quả.
"Yêu cầu đặt ra là phải tháo gỡ vướng mắc và hoàn thiện thể chế; đầu
tư công nghệ, hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin; huy động
được các nguồn lực tài chính, đào tạo, thu hút được nguồn nhân lực… Quá
trình này nếu không có thể chế đi trước mở đường rất có thể dẫn đến
thất bại" - TS Phước lưu ý.
Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch Hội đồng
Quản trị Tập đoàn Dệt may (Vinatex) cho biết “chuyển đổi số không phải
có sẵn một bộ giải pháp để doanh nghiệp lựa chọn áp dụng mà là một quá
trình vô cùng vất vả, thách thức về trí tuệ. Trong thời gian đầu, khối
lượng công việc có thể tăng gấp 1,6 - 1,7 lần, gây áp lực lớn cho công
tác quản trị doanh nghiệp. Nếu chọn bước đi không hợp lý, chi phí sẽ đội
lên rất lớn, không đủ nguồn lực để đến đích và quá trình chuyển đối số
sẽ thất bại, có thể khiến doanh nghiệp lâm vào khủng hoảng tài chính”.
Ông Dương Quốc Anh - Phó viện trưởng IDS, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban
Kinh tế của Quốc hội chia sẻ một góc nhìn khác từ lĩnh vực tài chính -
ngân hàng. Ông cho hay tài chính - ngân hàng là một trong những ngành
dịch vụ được đánh giá là chuyển đổi số nhanh nhất trong nền kinh tế vì
nó hội tụ một số điều kiện cần thiết.
Đây là ngành kinh doanh có điều kiện, với quy trình nghiệp vụ tương
đối chặt chẽ, có hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin và mạng thanh toán
liên thông giữa các ngân hàng; và quan trọng nhất là mỗi ngân hàng đều
có cơ sở dữ liệu khách hàng, là tài sản quan trọng nhất trong tiến trình
chuyển đổi số. Tuy nhiên, ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn về nguồn
lực, trong đó bao gồm cả nhân lực và vốn đầu tư. Theo ông Quốc Anh, khó
khăn lớn nhất vẫn là sự thiếu đồng bộ của hành lang pháp lý.
Theo các chuyên gia, chuyển đổi số và kinh tế số không chỉ đơn thuần
là bài toán công nghệ mà quan trọng nhất là thể chế, vì đây là vấn đề
liên quan đến cái mới. Trong nhiều trường hợp, kể cả có tiền đầu tư cũng
chưa chắc đã làm được nếu thiếu chính sách, do đó thể chế có tính chất
mở đường.
Từ kinh nghiệm thực tiễn chuyển đổi số ở doanh nghiệp sản xuất và ý
kiến thảo luận của các chuyên gia, nhà khoa học, TS Nguyễn Đức Kiên nhấn
mạnh: Cần có cái nhìn đa chiều và hiểu đúng về chuyển đổi số. Việc thực
hiện số hóa kết nối các thủ tục hành chính công, triển khai chính phủ
điện tử... không chỉ đơn giản có thể làm được với quyết tâm chính trị,
mà đó là quá trình phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi
phải thay đổi thể chế, chuẩn bị về nguồn nhân lực, nguồn tài chính lớn
và cần quỹ thời gian nhất định mới thành công.
Về thể chế, những quy định về tài chính phải được tính toán lại vì
thiết bị công nghệ số thay đổi rất nhanh chóng, không thể tính thời gian
khấu hao kéo dài như thông thường và giá trị số là tài sản lớn, phải
được tính vào tài sản của doanh nghiệp, thay vì chỉ được tính tài sản
hữu hình như cơ chế hiện hành. Cách thức chuyển đổi cũng không thể rập
khuôn, mà phải linh hoạt, phù hợp với từng đơn vị, cá nhân, ngành cụ
thể.
“Cần hiểu rõ về quá trình này để có sự đổi mới về cơ chế và sự chuẩn
bị kỹ lưỡng về vốn và nguồn nhân lực, từ đó lựa chọn các ngành nghề và
tính toán khả năng thực hiện chuyển đổi số thành công, tạo ra sự thay
đổi mang tính đột phá cho nền sản xuất quốc gia”, tiến sĩ Nguyễn Đức
Kiên nhấn mạnh.