Bối cảnh
Năm 2018, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 7,08%, cao nhất trong vòng hơn một thập niên vừa qua, đồng thời chất lượng tăng trưởng đã có cải thiện. Những động lực đóng góp chính vào tăng trưởng, về phía sản xuất là khu vực FDI với ngành công ngiệp chế biến chế tạo, về phía chi tiêu là tiêu dùng nội địa và thặng dư thương mại. Tuy nhiên, cải thiện môi trường kinh doanh có dấu hiệu chững lại, khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục gặp nhiều khó khăn và rào cản trong phát triển. Lạm phát và tỷ giá mặc dù nằm trong phạm vi điều chỉnh dự kiến, nhưng đã đương đầu nhiều sức ép. Dư địa chính sách tiền tệ bị thu hẹp, và đặc biệt là rủi ro tài khóa ngày càng gia tăng.
Trong giai đoạn khoảng 10 năm gần đây, Việt Nam luôn duy trì quy mô chi tiêu công ở mức cao, trong khi nguồn thu ngân sách không đủ để bù đắp, do vậy thâm hụt NSNN thường xuyên ở mức cao và hiện đang ở mức cao nhất trong khu vực. Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục vay nợ để bù đắp bội chi và hệ quả là nợ công gia tăng. Điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng dài hạn, ổn định kinh tế vĩ mô, và khả năng chống chọi với các cú sốc của nền kinh tế. Thực trạng này cũng dẫn đến Chính phủ không còn nhiều không gian tài khóa cho việc thực hiện các biện pháp kích cầu cần thiết khi nền kinh tế gặp khó khăn.
Để phản ứng lại với những bất ổn vĩ mô do hậu quả của thâm hụt tài khóa kéo dài, Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác thường áp dụng các biện pháp mang nặng tính hành chính như kiểm soát giá cả trong nước, áp trần lãi suất và tín dụng, kiểm soát tỷ giá, cắt giảm đầu tư công....Những biện pháp ít tính thị trường này chỉ có tác động ngắn hạn nhưng có rủi ro tăng sự thiếu hụt tổng cung do chúng bóp méo thị trường các nhân tố sản xuất trong nước, nguồn lực sẽ được phân bổ một cách không hợp lý, và do vậy làm giảm tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Điều này lại làm cho việc kiềm chế thâm hụt ngân sách càng khó khăn hơn và việc tăng hoặc áp thuế/phí mới là một trong những biện pháp cuối cùng mà Chính phủ có thể sử dụng. Tuy nhiên, gánh nặng thuế/phí cao sẽ làm giảm động cơ sản xuất, giảm tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư nhân, và đẩy tiếp nền kinh tế vào giai đoạn khó khăn hơn.
Có thể nói, thâm hụt ngân sách cao và nợ công tăng nhanh hiện nay là một trong những rủi ro vĩ mô lớn nhất của nền kinh tế, đồng thời làm hạn chế các lựa chọn của Chính phủ trong việc đưa nền kinh tế thoát khỏi vùng trũng suy giảm và tiến vào “quỹ đạo tăng trưởng” mới. Trong bối cảnh đó, việc đánh giá một cách toàn diện thực trạng về chính sách tài khóa, từ đó đánh giá được tính bền vững tài khóa và không gian tài khóa trong giai đoạn mới của nền kinh tế, đồng thời phân tích tác động của chính sách tài khóa đến nền kinh tế là một việc làm hết sức cần thiết hiện nay. Kết quả của đánh giá chuyên sâu vấn đề này sẽ có đóng góp quan trọng về cơ sở lý luận và thực tiễn cho cải cách chính sách tài khóa tại Việt Nam trong bối cảnh hiện tại, đáp ứng việc duy trì cán cân ngân sách bền vững, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững trong dài hạn.
Mục tiêu nghiên cứu
Báo cáo Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2018 có chủ đề “Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng” với mục tiêu bên cạnh việc đánh giá diễn biến kinh tế năm 2018 (thành tựu và những tồn tại, đánh giá nguyên nhân, phân tích cơ hội và thách thức) và triển vọng năm 2019, sẽ lựa chọn một nội dung chuyên sâu là phân tích thực trạng chính sách tài khóa và nghiên cứu tác động đến nền kinh tế, từ đó đưa ra các khuyến nghị cải cách tài khóa với mục tiêu đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, và góp phần hỗ trợ tăng trưởng.
Từ mục tiêu trên, Báo cáo sẽ có những mục tiêu cụ thể sau:
- Làm rõ bối cảnh quốc tế năm 2018 và những tác động của thế giới đến kinh tế Việt Nam;
- Đánh giá diễn biến kinh tế Việt Nam trên bốn khu vực chính của nền kinh tế (khu vực kinh tế thực, khu vực kinh tế đối ngoại, khu vực tài chính tiền tệ, khu vực tài chính ngân sách); đánh giá những thành tựu, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân;
- Phân tích những cơ hội, thách thức, và đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2019;
- Phân tích đặc điểm và thực trạng chính sách tài khóa Việt Nam, bao gồm thực trạng thu ngân sách, chi ngân sách, phân cấp ngân sách và nợ công;
- Đánh giá tác động của chính sách tài khóa đến nền kinh tế; và mức độ bền vững của chính sách tài khóa trong trung và dài hạn;
- Khuyến nghị chính sách trong điều hành kinh tế năm 2019 và những năm tiếp theo; đồng thời đề xuất các giải pháp hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.
Phương pháp nghiên cứu và số liệu
Phương pháp nghiên cứu của Báo cáo là kết hợp phương pháp định tính (phân tích, so sánh, thống kê,...) và phương pháp định lượng xây dựng các mô hình kinh tế lượng để nghiên cứu và ước lượng các tác động của chính sách tài khóa đến nền kinh tế.
Số liệu sử dụng cho phần đánh giá tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2018 được chiết xuất chủ yếu từ các nguồn TCTK, BTC, NHNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, IFS (IMF), và WDI (WB). Số liệu sử dụng cho các nội dung về chính sách tài khóa chủ yếu là nguồn TCTK, BTC, và các tổ chức quốc tế như WB, IMF và ADB…
Điểm khác biệt của Báo cáo
Báo cáo Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2018 có những điểm khác biệt và cũng là điểm nhấn so với các báo cáo kinh tế thường niên của các tổ chức khác.
Thứ nhất, Báo cáo thể hiện quan điểm riêng của nhóm chuyên gia Đại học Kinh tế Quốc dân về các vấn đề kinh tế trong năm, có tính phản biện chính sách một cách độc lập, là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách.
Thứ hai, bên cạnh phân tích định tính, những đánh giá của Báo cáo được thực hiện thông qua các mô hình định lượng, theo đó, đảm bảo những kết luận đưa ra được dựa trên những bằng chứng thực nghiệm, có căn cứ khoa học, có dẫn chứng cụ thể. Điều này cũng thể hiện tính học thuật cao của Báo cáo thường niên, gắn kết những vấn đề nóng của nền kinh tế với việc thực hiện nghiên cứu định lượng. Vì vậy, Báo cáo cũng là một tài liệu tham khảo hữu ích cho giới nghiên cứu.
Thứ ba, cách viết của Báo cáo được điều chỉnh để dung hòa tính học thuật trong nghiên cứu kinh tế (sử dụng mô hình toán, các phương pháp thống kê,…) với ngôn ngữ dễ hiểu, dễ đọc đối với người đọc thuộc các đối tượng khác nhau.
Cấu trúc của Báo cáo
Ngoài phần Giới thiệu, Báo cáo bao gồm phần Tóm tắt Báo cáo và phần viết chính. Tóm tắt Báo cáo sẽ tóm tắt lại toàn bộ Báo cáo với cách viết không kỹ thuật, thân thiện với người đọc.
Báo cáo chính gồm có 3 phần. Vì là một báo cáo đánh giá kinh tế thường niên, nên Phần I (Kinh tế Việt Nam 2018 và Triển vọng 2019) nghiên cứu về tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2018 và triển vọng năm 2019. Phần này bao gồm: Diễn biến kinh tế thế giới năm 2018; Đánh giá tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2018 thông qua các khu vực của nền kinh tế (khu vực kinh tế thực, khu vực kinh tế đối ngoại, khu vực tài chính tiền tệ, khu vực tài chính ngân sách); và triển vọng kinh tế năm 2019. Như vậy Phần I không những đánh giá kinh tế nói chung mà còn có những phân tích ban đầu về khu vực tài chính ngân sách, làm tiền đề cho những nghiên cứu chi tiết hơn về chính sách tài khóa ở Phần II của Báo cáo.
Phần II (Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng) được kết cấu thành các đề mục chính theo các khía cạnh khác nhau của chính sách tài khóa, sử dụng kết hợp phương pháp định tính và phương pháp định lượng. Mục II.1 nghiên cứu và đánh giá thu ngân sách (quy mô thu ngân sách, cơ cấu thu ngân sách, xu hướng cải cách thuế và ước lượng tác động của dự kiến tăng thuế VAT và tiêu thụ đặc biệt đến nền kinh tế). Mục II.2 nghiên cứu và đánh giá chi ngân sách (quy mô chi ngân sách, cơ cấu chi ngân sách, ước lượng tác động của chi ngân sách đến tăng trưởng). Mục II.3 nghiên cứu và đánh giá về phân cấp ngân sách (thực trạng phân cấp ngân sách, tác động của phân cấp ngân sách đến tăng trưởng). Mục II.4 nghiên cứu và đánh giá về nợ công (cấu trúc nợ công, quy mô và cơ cấu nợ công, đánh giá tính bền vững của nợ công). Ở mỗi mục này, kết cấu về cơ bản gồm có: khái quát những khái niệm cơ bản về nội dung nghiên cứu, các cơ sở pháp lý có liên quan, đánh giá thực trạng, và nghiên cứu định lượng đánh giá và ước lượng tác động đến nền kinh tế.
Phần III (Khuyến nghị chính sách), dựa trên các kết quả nghiên cứu ở Phần I và Phần II), đưa ra các khuyến nghị chính sách về điều hành kinh tế năm 2019 nói riêng và các năm sắp tới nói chung; và các khuyến nghị chính sách cụ thể với mục tiêu hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng.
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Đồng chủ biên
GS.TS. Trần Thọ Đạt tu nghiệp và nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế học tại Đại học Quốc gia Úc (ANU) và Tiến sĩ Thống kê tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hiện ông là Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là kinh tế học, kinh tế phát triển, chính sách tài chính và tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính trong giáo dục, các vấn đề kinh tế học về biến đổi khí hậu và môi trường và quản trị đại học.
PGS.TS. Tô Trung Thành tốt nghiệp Tiến sỹ Kinh tế học tại Đại học Birmingham, Vương quốc Anh. Ông từng là thành viên Nhóm tư vấn chính sách (PAG) cho Bộ Tài chính và Nhóm tư vấn chính sách kinh tế vĩ mô (MAG) cho Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Hiện ông là Trưởng phòng Quản lý Khoa học và là giảng viên nghiên cứu, giảng dạy tại Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là phân tích kinh tế vĩ mô, kinh tế quốc tế, ổn định tài chính, phân tích hoạt động doanh nghiệp.
Các tác giả khác (theo thứ tự ABC)
PGS.TS. Phạm Thế Anh nhận bằng Tiến sỹ Kinh tế học tại Đại học Tổng hợp Manchester, Vương quốc Anh. Hiện ông là Trưởng Bộ môn Kinh tế vĩ mô, Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là kinh tế và các chính sách kinh tế vĩ mô.
PGS.TS. Vũ Sỹ Cường nhận bằng Tiến sỹ Kinh tế tài chính tại Đại học Paris 1 - Pantheon Sorbonne, Cộng hòa Pháp. Hiện ông là phó Trưởng Bộ môn Phân tích chính sách tài chính, Khoa Tài chính công, Học viện Tài chính. Ông từng tham gia tư vấn cho các dự án của Ủy ban kinh tế, Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội và các tổ chức quốc tế. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là phân tích chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế, doanh nghiệp nhà nước.
TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền nhận bằng Tiến sỹ Kinh tế phát triển tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hiện bà là Phó Trưởng Khoa Môi trường, Biến đổi khí hậu và Đô thị, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là phát triển bền vững, bất bình đẳng, kinh tế và tài chính đô thị.
ThS. Đinh Tuấn Minh nhận bằng thạc sĩ tại Học viện công nghệ châu Á (AIT), Thái Lan năm và đang theo học chương trình tiến sĩ về kinh tế đổi mới công nghệ tại Trường Đại học tổng hợp Maastricht, Hà Lan. Hiện ông đang công tác tại Viện chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là các cơ chế thị trường và khả năng ứng dụng trong đời sống kinh tế-xã hội từ góc độ của kinh tế học thể chế mới và kinh tế học trường phái Áo.
ThS. Phạm Xuân Nam nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế phát triển tại Chương trình hợp tác Cao học Việt Nam – Hà Lan, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hiện ông đang công tác tại Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là tăng trưởng doanh nghiệp và những yếu tố ảnh hưởng.
ThS. Trần Anh Ngọc nhận bằng Thạc sĩ Khoa học về Kế toán và Quản trị tại Đại học Southampton, Vương quốc Anh. Hiện ông đang nghiên cứu và giảng dạy tại Viện Ngân hàng - Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là lý thuyết về tài chính tiền tệ, phân tích tài chính doanh nghiệp, tài chính toàn diện.
ThS. Lưu Thị Phương nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế quốc tế và Phát triển tại Đại học Quốc gia Úc (ANU). Hiện bà đang công tác tại Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là các chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách tài khóa, tiền tệ) và kinh tế học ứng dụng.
ThS. Lê Thị Như Quỳnh tốt nghiệp Thạc sỹ Kinh tế học tại Đại học Sydney, Úc. Hiện bà là giảng viên Viện Ngân hàng - Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Lĩnh vực nghiên cứu chính của bà là tài chính ngân hàng, tài chính toàn diện.
TS. Bùi Trinh nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Kyoto, Nhật Bản. Hiện ông đang công tác tại Viện Nghiên cứu Phát triển Việt Nam (VIDERI). Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là phân tích Bảng I-O.
TÓM TẮT BÁO CÁO